TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 42/2020/HS-PT NGÀY 03/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 03 tháng 9 năm 2020 tại Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 37/2020/TLPT-HS ngày 04 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo Triệu Mùi M do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2020/HS-ST ngày 29/06/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Cao Bằng.
Bị cáo có kháng cáo: Triệu Mùi M; tên gọi khác: Không có. Sinh ngay 07/4/1962 tại xã N, huyện B, tỉnh Cao Bằng.
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xóm O, xã Y, huyện B, tỉnh Cao Bằng; Dân tộc: Dao; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Nghề nghiệp: Nông dân; Trình độ văn hoá: Mù chữ; Con ông: Triệu Dùn Phin (đã chết) và bà Đặng Mùi P, sinh năm 1935; Chồng: Hoàng Thồng G, sinh năm 1963, con: 03 con, con lớn nhất sinh năm 1987, con nhỏ nhất sinh năm 1999,Tiền án: Không; Tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 01/4/2020 đến nay. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đoàn Thị Tâm - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Cao Bằng. Có mặt.
Người phiên dịch tiếng Dao đỏ: Ông Triệu Tạ Phâu – Công chức Đài Phát thanh truyền hình tỉnh Cao Bằng. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 13 giờ 30 phút ngày 24/3/2020 tại xóm S, xã Y phát hiện một người đàn ông điều khiển xe mô tô BKS 29 L1-55642 chở một người phụ nữ có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Công an đã ra hiệu lệnh dừng xe và kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra xác định được người đàn ông có tên K, sinh năm 1996, người phụ nữ là Triệu Mùi M, sinh năm 1962 cùng trú tại xóm O, xã Y, huyện B, tỉnh Cao Bằng. Kiểm tra trên người K không phát hiện thu giữ được gì. Kiểm tra trên người Triệu Mùi M phát hiện 01 túi nilon bên trong có một ống trúc đường kính khoảng 2cm, chiều cao 5cm, bên trong ống trúc có 02 gói chất nhựa dẻo màu đen. Theo lời khai của Triệu Mùi M đó là thuốc phiện, M mua với một người đàn ông tên A. Công an xã Y đã tiến hành tạm giữ các đồ vật tài liệu gồm:
+ Đồ vật, tài liệu tạm giữ của K:
- 01 xe môtô BKS 29L1-55642 nhãn hiệu HONDA, màu sơn đỏ đen;
- 01 ví da màu nâu, trên mặt ví có dòng chữ LEVIS;
- 01 chứng minh thư nhân dân mang tên K;
- 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Đặng Mùi Ch;
- 01 giấy đăng ký xe môtô mang tên Bùi Văn H;
- 01 giấy phép lái xe mang tên K;
- 01 thẻ khách hàng của công ty điện lực Cao Bằng mang tên Hoàng Thồng O1;
- 01 điện thoại di động màu đen nhãn hiệu NOKIA có số IMEL 351859077983959 điện thoại cũ đã qua sử dụng;
- 01 điện thoại di dộng màn hình cảm ứng, màu trắng, nhãn hiệu OPPO, có số IMEL: 860739036357897, số IMEL2:860739036357889 điện thoại cũ đã qua sử dụng.
- Tiền VNĐ 196.000, đ (Một trăm chín mươi sáu nghìn đồng).
|+ Đồ vật, tài liệu thu giữ của Triệu Mùi M:
- 02 gói nhựa dẻo màu đen;
- 01 chiếc điện thoại di động màu đen có viền màu đỏ, nhãn hiệu GOLYC10, có số IMEL: 359814075873456, điện thoại cũ đã qua sử dụng.
- Tiền VNĐ 3.045.000,đ (Ba triệu không trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).
Tại cơ quan điều tra K khai: Sáng ngày 24/3/2020 mẹ đẻ của K là Triệu Mùi M nhờ K lấy xe mô tô của gia đình chở M đi chợ P3, P4, huyện L, tỉnh Cao Bằng để mua thuốc chữa bệnh cho trâu, bò. Khoảng 10 giờ đến chợ P3, K vào chợ ăn phở còn mẹ của K đi đâu, làm gì thì K không rõ. Đến khoảng 12 giờ mẹ của K gọi điện thoại di động bảo K đón ở cuối chợ P3. K chở mẹ về nhà, khi đến đoạn đường thuộc xóm S, xã Y, huyện B, tỉnh Cao Bằng thì K và mẹ bị Công an ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra. K thấy mẹ của K lấy ở trong túi ra một thứ gì đấy định ném xuống đất nhưng bị công an phát hiện, kiểm tra đó là 01 túi nilon, bên trong có 01 ống trúc có đường kính khoảng 2cm, cao khoảng 5cm, bên trong ống trúc có 02 gói chất nhựa dẻo màu đe, K thấy mẹ của K khai với công an là thuốc phiện, lúc đó K mới biết mẹ của mình đi chợ mua thuốc phiện.
Triệu Mùi M khai nhận: Sáng ngày 24/3/2020, M nhờ con trai là K lấy xe mô tô của gia đình chở M đi chợ P3 để mua thuốc chữa bệnh cho trâu, bò. Khoảng 10 giờ đến chợ P3, K vào chợ ăn phở còn M đi vào chợ mua các vật dụng cho gia đình, sau đó M đã gặp một người đàn ông có tên A đển hỏi mua thuốc phiện. M đã mua 02 gói thuốc phiện với người đàn ông này với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua được thuốc phiện, M gọi điện cho K đến đón và chở M về nhà. Khi về đến đoạn đường thuộc xóm S, xã Y, huyện B, tỉnh Cao Bằng thì bị Công an ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra hành chính. M lấy thuốc phiện trong người ra định ném xuống đất nhưng bị công an phát hiện và thu giữ.
Tại Biên bản mở niêm phong vật chứng cân xác định khối lượng tịnh ngày 25/3/2020 tại Công an huyện B xác dịnh 02 gói nhựa dẻo màu đen thu giữ của Triệu Mùi M có khối lượng là 04 gam. Tại Bản kết luận giám định số 104/GĐMT ngày 08/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Cao Bằng đối với mẫu chất dẻo màu đen thu giữ của Triệu Mùi M bắt ngày 24/3/2020 tại xóm S, xã Y, huyện B, tỉnh Cao Bằng kết luận: “Mẫu chất nhựa màu đen bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là thuốc phiện”.
Căn cứ các tài liệu Cơ quan điều tra đã thu thập xác định được Triệu Mùi M đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Đối với K, do không biết việc mẹ mình đi mua và tàng trữ trái phép chất ma túy, do đó không có căn cứ để xử lý. Vì vậy, cơ quan điều tra đã trả lại những đồ vật, tài liệu tạm giữ cho K theo Biên bản trả lại tài sản ngày 25/3/2020. Đối với người đàn ông có tên gọi A mà M khai được mua thuốc phiện với nhưng không biết cụ thể họ tên, địa chỉ do đó không xác định được người đàn ông đó là ai nên không có căn cứ để xử lý.
Tại Bản cáo trạng số 12/CT-VKSNB ngày 27/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo Triệu Mùi M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Bản án số 14/2020/HS-ST ngày 29/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Cao Bằng đã quyết định:
1.Tuyên bố các bị cáo Triệu Mùi M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 249; điểm m, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015. xử phạt bị cáo Triệu Mùi M 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng thu giữ được của Triệu Mùi M tại xóm S, xã Y, huyện L, tỉnh Cao Bằng, ngày 24/3/2020”, mặt sau có chữ ký của thành phần tham gia niêm phong, 01 điểm chỉ của Triệu Mùi M và 04 hình dấu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Cao Bằng.
- Trả lại cho bị cáo số tiền 3.045.000,đ (ba triệu không trăm bốn mươi lăm nghìn đồng) nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động màu đen có viền màu đỏ, nhãn hiệu GOLYC10, có số IMEL: 359814075873456, điện thoại cũ đã qua sử dụng.
Số vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại khi của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Cao Bằng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày số 16 ngày 28/5/2020.
Ngoài ra án sơ thẩm cũng đã tuyên về án phí và quyền kháng cáo của bị cáo. Ngày 07 tháng 7 năm 2020, bị cáo Triệu Mùi M có đơn kháng cáo với nội dung xin hưởng án treo.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và khai nhận: Sáng ngày 24/3/2020, bị cáo nhờ con trai là K lấy xe mô tô của gia đình chở bị cáo đi chợ P3 để mua thuốc chữa bệnh cho trâu, bò. Khoảng 10 giờ đến chợ P3, K vào chợ ăn phở còn bị cáo đi vào chợ mua các vật dụng cho gia đình, sau đó bị cáo đã gặp một người đàn ông có tên A đển hỏi mua thuốc phiện. Bị cáo đã mua 02 gói thuốc phiện với người đàn ông này với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua được thuốc phiện, bị cáo gọi điện cho K đến đón và chở bị cáo về nhà. Khi về đến đoạn đường thuộc xóm S, xã Y, huyện B, tỉnh Cao Bằng thì bị công an ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra hành chính, bị cáo lấy thuốc phiện trong người ra định ném xuống đất nhưng bị công an phát hiện và thu giữ.
Người bào cữa cho bị cáo trình bày luận cứ: Bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiề sự, số lượng ma tuý không lớn, nhận thức pháp luật hạn chế, thành khẩn khai báo, mục đích mua thuốc phiện về để cữa bệnh cho trâu bò. Đề nghị áp dụng điểm s, điểm m của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo tù nhưng cho hưởng án treo vì bị cáo có nơi cư trú rõ ràng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án như sau: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không đưa ra thêm được căn cứ nào khác để Hội đồng xét xử xem xét. Do vậy, không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.
Kiểm sát viên không cấp nhận quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 14/2020/HS-ST ngày 29/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Cao Bằng.
Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07 tháng 7 năm 2020, bị cáo Triệu Mùi M có kháng cáo. Xét đơn kháng cáo của bị cáo viết trong hạn luật định và thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm xác định được:
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa cấp sơ thẩm; phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 13 giờ 28 phút ngày 24/3/2020 tại Trạm y tế Y, huyện B, tỉnh Cao Bằng; Biên bản mở niêm phong vật chứng cân xác định khối lượng tịnh ngày 25/3/2020 tại Công an huyện B; Bản kết luận giám định số 104/GĐMT ngày 08/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Cao Bằng. Do vậy, bản án sơ thẩm số 14/2020/HS-ST ngày 29/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Cao Bằng đã tuyên bố bị cáo Triệu Mùi M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hanh vi cua bi cao là nguy hiểm cho xã hội, gop phân lam gia tăng tê nan xa hôi, gây mât trât tư tri an và anh hương xâu đên tinh hinh an ninh trât tư ơ đia phương.
[2]. Xét yêu cầu kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo:
Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên hành vi tàng trữ 04 (Bốn) gam thuốc phiện của bị cáo được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù, là tội phạm nghiêm trọng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không xuất trình được tài liệu, chứng cứ giảm nhẹ nào khác. Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đến tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm m, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo, xử phạt bị cáo 12 (mười hai) tháng tù là có căn cứ và thỏa đáng, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
Xét thấy, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Cao Bằng là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận. Không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo và quan điểm của người bào chữa.
[3]. Về nghĩa vụ chịu án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Triệu Mùi M. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2020/HS-ST ngày 29/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Cao Bằng.
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm m, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Triệu Mùi M. Xử phạt bị cáo 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ bị cáo đi chấp hành án.
2. Về án phí: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Triệu Mùi M phải chịu 200.000đ,00 (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm sung vào ngân sách Nhà nước.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 42/2020/HS-PT ngày 03/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 42/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về