TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 42/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/07/2020 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON
Trong ngày 17 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 35/2020/TLST–HNGĐ, ngày 13 tháng 02 năm 2020 về việc tranh chấp xin ly hôn và nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2020/QĐXXST–HNGĐ, ngày 05 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: chị Lâm Hoàng N, sinh năm 1981; cư trú tại: ấp N, xã N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.
2. Bị đơn: anh Cù Văn G, sinh năm 1978; cư trú tại: ấp N, xã N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.
(Chị Lâm Hoàng N vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Cù Văn G vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lâm Hoàng N trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2001 chị N và anh G có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ninh Quới A, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Thời gian đầu, vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị N yêu cầu xin ly hôn với anh Cù Văn G.
Về quan hệ con chung: Chị N xác định trong quá trình chung sống, giữa chị và anh G có với nhau 02 người con chung tên Cù Văn T, sinh ngày 07/10/2002 và Cù Văn T, sinh ngày 11/7/2006. Hiện tại cháu T đang sống chung với anh G, cháu T đang sống chung với chị N. Nay chị N yêu cầu được nuôi cháu T, không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con và chị N đồng ý cho anh G nuôi cháu T, chị N xin không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ngoài ra, chị N không còn yêu cầu gì khác.
Đối với bị đơn anh Cù Văn G: Tòa án có tiến hành giao thông báo thụ lý và tiến hành lấy lời khai đối đối với anh Cù Văn G nhưng anh G không có mặt ở địa phương nên không thể tiến hành giao thông báo thụ lý và không thể tiến hành lấy lời khai đối với anh G. Bên cạnh đó, Tòa án có tiến hành niêm yết các thủ tục theo quy định pháp luật do anh G không có mặt ở địa phương. Chính quyền địa phươg cũng xác định, anh G vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp N, xã N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu và hiện tại không có ở địa phương nhưng lâu lâu anh G có về địa phương một lần.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật.
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Từ khi tham gia tố tụng cho đến nay, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Lâm Hoàng N được ly hôn với anh Cù Văn G;
2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Cù Văn T, sinh ngày 07/10/2002 cho anh Cù Văn G nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; Giao cháu Cù Văn T, sinh ngày 11/7/2006 cho chị Lâm Hoàng N nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị N và anh G không ai phải cấp dưỡng nuôi con nhưng chị N và anh G đều có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.
3. Về quan hệ tài sản: Chị Lâm Hoàng N không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Lâm Hoàng N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Cù Văn G và yêu cầu giải quyết về con chung nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con” là đúng quy định.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Cù Văn G có nơi đăng ký thường trú tại ấp N, xã N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
[3] Nguyên đơn chị Lâm Hoàng N tuy rằng vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với chị N. Bị đơn anh Cù Văn G vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Cù Văn G.
Về nội dung:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh G có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ninh Quới A, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nên quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh G là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống đến nay, chị N xác định chị và anh G có phát sinh nhiều mâu thuẩn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chị N không thể hàn gắn với anh G được nữa. Hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay. Nay chị N nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Cù Văn G. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành xác minh được biết giữa chị N và anh G có phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng lúc sống chung thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Lâm Hoàng N được ly hôn với anh Cù Văn G.
[2] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống chị N xác định giữa chị và anh Cù Văn G có với nhau 02 người con chung là cháu Cù Văn T, sinh ngày 07/10/2002 và Cù Văn T, sinh ngày 11/7/2006. Nay chị N yêu cầu được nuôi cháu T, không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con và chị N đồng ý cho anh G nuôi cháu T, chị N xin không cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, hiện tại cháu Cù Văn T đang sống cùng anh G; cháu Cù Văn T đang sống cùng chị N và cả hai cháu đã có cuộc sống, môi trường ăn, ở, học ổn định. Đồng thời, cháu T có nguyện vọng theo sống cùng cha là anh G, cháu T có nguyện vọng theo sống cùng mẹ là chị N. Do đó, Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu Cù Văn T, sinh ngày 07/10/2002 cho anh Cù Văn G nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; Giao cháu Cù Văn T, sinh ngày 11/7/2006 cho chị Lâm Hoàng N nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị N và anh G không ai phải cấp dưỡng nuôi con nhưng chị N và anh G đều có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.
[3] Về quan hệ tài sản: Chị Lâm Hoàng N không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.
[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Buộc chị Lâm Hoàng N phải chịu số tiền 300.000 đồng.
Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.
Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lâm Hoàng N.
1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lâm Hoàng N được ly hôn với anh Cù Văn G.
2/ Về con chung: Tiếp tục giao cháu Cù Văn T, sinh ngày 07/10/2002 cho anh Cù Văn G nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; Giao cháu Cù Văn T, sinh ngày 11/7/2006 cho chị Lâm Hoàng N nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị N và anh G không ai phải cấp dưỡng nuôi con nhưng chị N và anh G đều có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.
3/ Về tài sản chung: Chị Lâm Hoàng N không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.
4/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lâm Hoàng N phải nộp số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng chị N đã dự nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0002937 ngày 13/02/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu toàn bộ số tiền trên thành án phí.
Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên được quyền kháng nghị bản án này theo quy định pháp luật./.
Bản án 42/2020/HNGĐ-ST ngày 17/07/2020 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con
Số hiệu: | 42/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 17/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về