TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 42/2020/DS-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thới Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 140/2019/TLST – DS, ngày 06 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 226/2020/QĐXX - ST ngày 13 tháng 8 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 186/2020/QĐST-DS ngày 31 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Phạm Tuyết P, sinh năm 1983 (có mặt) Địa chỉ: Ấp A, xã TL, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
2. Bị đơn:
2.1 Bà Lữ Kim C (vắng mặt)
2.2. Ông Lê Việt A (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã TL, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trình bày của bà Phạm Tuyết P:
Bà P xác định đã cho vợ chồng bà Lữ Kim C và ông Lê Việt A vay tiền, tổng cộng 06 lần cụ thể như sau:
Lần 1: Vào ngày 18/9/2017 (âm lịch) vay 40.000.000 đồng; Lần 2: Vào ngày 19/12/2017 (âm lịch) vay 20.000.000 đồng:
Lần 3: Vào ngày 07/3/2018 (âm lịch) mượn 35.000.000 đồng, bà C nói là mượn dùm cho bà U là chế của bà C. Bà C đã trả 7.350.000 đồng, còn nợ lại 27.650.000 đồng:
Lần 4: Vào ngày 10/3/2018 (âm lịch) mượn 15.000.000 đồng, bà C nói mượn dùm bà T là chị của bà C, đã trả 8.000.000 đồng, còn nợ lại 7.000.000 đồng; Lần 5: Vào ngày 21/3/2018 (âm lịch) bà C mượn 30.000.000 đồng, bà C nói mượn dùm ông T vựa tôm, đã trả 9.900.000 đồng, còn nợ lại 20.100.000 đồng:
Lần 6: Vào ngày 22/3/2018 (âm lịch) bà C mượn 10.000.000 đồng, bà C nói mượn dùm bà H hãng nước đá, đã trả 3.300.000 đồng, còn nợ lại 6.700.000 đồng:
Lần 7: Vào ngày 25/3/2018 (âm lịch) bà C mượn 10.000.000 đồng, bà C nói mượn dùm cô C giáo viên, đã trả 4.200.000 đồng, còn nợ lại 5.800.000 đồng:
Lần 8: Vào ngày 28/3/2018 (âm lịch) bà C mượn 15.000.000 đồng, bà C nói mượn dùm bà B là cháu ruột của bà C, đã trả 3.600.000 đồng, còn nợ lại 11.400.000 đồng:
Sau đó bà C nhờ bà P chơi dùm 01 chân hụi 1.000.000 đồng, đã lĩnh hụi còn nợ lại 17 tháng hụi chết với số tiền 17.000.000 đồng.
Tổng cộng số tiền bà C và ông A nợ bà P là 155.650.000 đồng.
Tại đơn khởi kiện bà P khởi kiện yêu cầu bà C và ông A có nghĩa vụ thanh toán lại cho bà P số tiền 155.650.000 đồng, không yêu cầu thanh toán lãi. Tại phiên tòa, bà P thay đổi yêu cầu, chỉ yêu cầu bà Lữ Kim C và ông Lê Việt A có nghĩa vụ thanh toán cho bà số tiền 65.000.000 đồng, không yêu cầu thanh toán lãi.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập có tại hồ sơ vụ án cũng như quá trình thẩm tra tại phiên tòa, xét thấy bà P khởi kiện bà C và ông A yêu cầu thanh toán tiền hụi 155.650.000 đồng, tại phiên tòa bà P thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bà C và ông A thanh toán số tiền như đã thừa nhận tại giai đoạn điều tra 65.000.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn điều tra, bà C và ông A thừa nhận còn nợ lại bà P 65.000.000 đồng, xét thấy yêu cầu của bà P là có căn cứ nên đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà P.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về thủ tục tố tụng:
[1] Theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, việc tranh chấp giữa các đương sự nêu trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình.
[2] Bà Lữ Kim C, ông Lê Việt A đã được Tòa án triệu tập xét lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lí do. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà C, ông A theo quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về NỘI DUNG VỤ ÁN
[3] Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Bà Phạm Tuyết P xác định trong thời gian từ ngày 18/9/2017 (âm lịch) đến ngày 28/3/2018 (âm lịch) bà P đã cho bà Lữ Kim C, ông Lê Việt A mượn tiền gồm 08 lần và chơi dùm chân hụi 1.000.000 đồng, tổng cộng bà C và ông A còn nợ bà 155.650.000 đồng, bà P yêu cầu bà C, ông A thanh toán nhưng bà C, ông A không thanh toán. Tại phiên tòa, bà P chỉ yêu cầu bà C, ông A thanh toán tiền vay 65.000.000 đồng. Vì vậy, giao dịch về vay tài sản giữa bà P và bà C, ông A là thực tế có xảy ra và hợp pháp.
[4] Hồ sơ vụ án thể hiện, bà C và ông A có giao dịch vay tiền, góp hụi của bà Phạm Tuyết P nhưng ông A và bà C chỉ thừa nhận nợ bà P 65.000.000 đồng, thể hiện lần đầu nợ 40.000.000 đồng, lần sau nợ 25.000.000 đồng. Tại đơn khởi kiện, Bà P yêu cầu bà C và ông A yêu cầu thanh toán 155.650.000 đồng nhưng do bà P không xuất trình được biên nhận của các lần vay mượn, chơi hụi nêu trên. Do bà P không thu thập được chứng cứ chứng minh nên tại phiên tòa, bà P chỉ yêu cầu bà C và ông A thanh toán tiền nợ vay theo như thừa nhận là 65.000.000 đồng, không yêu cầu thanh toán lãi. Xét thấy, bà C thừa nhận tại hồ sơ vụ án là còn nợ lại bà P 65.000.000 đồng (bút lục 97), ông A thừa nhận bà C nợ tiền để sử dụng vào mục đích sinh hoạt chung trong gia đình, ông A và bà C là vợ chồng nên ông A và bà C cùng có nghĩa vụ thanh toán nợ cho bà P. Do đó, yêu cầu của bà P tại phiên tòa là có căn cứ nên cần chấp nhận. Buộc bà C và ông A phải có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho bà P số tiền nợ vay 65.000.000 đồng. Bà P không đặt ra yêu cầu thanh toán lãi nên không xem xét.
[5] Trường hợp bà C, ông A chậm thanh toán khoản tiền nói trên cho bà P thì phải chịu lãi suất theo khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Bà P không phải chịu án phí đối với yêu cầu được chấp nhận. Bà C, ông A phải chịu án phí đối với nghĩa vụ của mình. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Lữ Kim C và ông Lê Việt A.
Áp dụng Điều 463, 466 Bộ luật dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Tuyết P đối với bà Lữ Kim C, ông Lê Việt A về việc thanh toán hợp đồng vay tài sản.
1.1. Buộc bà Lữ Kim C và ông Lê Việt A có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho bà Phạm Tuyết P số tiền nợ vay 65.000.000 đồng (sáu mươi lăm triệu đồng).
1.2. Trường hợp bà C, ông A chậm thanh toán khoản tiền nói trên cho bà P thì phải chịu lãi suất theo khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Bà C, ông A phải chịu án phí số tiền 3.250.000 đồng (ba triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) nộp Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình.
3. Về án phí dân sự có giá ngạch: Bà P không phải chịu án phí. Ngày 30/7/2020 bà P nộp tạm ứng án phí số tiền 3.891.000 đồng (ba triệu tám trăm chín mươi mốt nghìn đồng) theo biên lai số 0010585 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình, bà P được nhận lại.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
5. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Báo cho bà P được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà C, ông A được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được nhận hoặc được tống đạt hợp lệ. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo luật định.
Bản án 42/2020/DS-ST ngày 25/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 42/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về