TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 42/2019/HS-ST NGÀY 30/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 48/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:
Ngô Quốc C, sinh ngày 13/9/2000; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn V, xã Quảng Y, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Tiến S và bà Lê Thị D; tiền án: Ngày 28/4/2018, Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/11/2018 đến ngày 21/11/2018 chuyển tạm giam. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Chị Trần Thị Ngọc T (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số nhà 09/35 N, phường Đ, TP T, tỉnh Thanh Hóa.
Anh Đỗ Ngọc S, sinh ngày 29/02/2001 (Vắng mặt). Địa chỉ: thôn 7 H, xã Q, huyện Quảng X, tỉnh Thanh Hóa.
Người đại diện của anh Sơn: Ông Đỗ Ngọc Đ (Vắng mặt).
Địa chỉ: thôn 7 H, xã Q, huyện Quảng X, tỉnh Thanh Hóa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn C (Vắng mặt). Địa chỉ: thôn U, xã Q, huyện Quảng X, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ ỏn được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 03 giờ ngày 09/11/2018, Ngô Quốc C, sinh ngày 13/9/2000, làngười làm thuê cho anh Phạm Văn D, sinh năm 1977 ở 09/35 N, phường Đ, TP T, tỉnh dậy định đi về không làm thuê cho anh D nữa thì nhìn thấy chiếc xe máy SH Mode màu đỏ BKS 36B3-828.86 của gia đình anh D dựng ở trong nhà và chiếc điện thoại di động OPPO F3 của anh Đỗ Ngọc S, sinh ngày 29/02/2001 ở thôn 7 H, xã Q, huyện Quảng X, tỉnh Thanh Hóa (là người làm thuê cho anh D) để ngay cạnh chỗ C nằm. Lúc này cả nhà đang ngủ, cửa không khóa, C nảy sinh ý định trộm cắp nên cầm chiếc điện thoại bỏ vào ba lô và lấy chìa khóa xe máy đang để trên bàn thờ thần tài rồi dắt xe máy ra ngoài khoảng 10 m thì mở khóa xe và nổ máy chạy về trường cấp III, xã Q, huyện Quảng X thì đứng lại. C mở mở cốp xe máy thấy bên trong có 01 sổ hộ khẩu và đăng ký xe máy mang tên chị Trần Thị Ngọc T (chị T là vợ anh D), sau đó C mang xe máy đến hiệu cầm đồ của anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1989 ở thôn U, xã Q, huyện Quảng X, tỉnh Thanh Hóa cầm cố lấy 20.000.000đ. Chiếc điện thoại OPPO F3 của anh S, C đem bán cho một cửa hàng điện thoại ở T, tỉnh B (không nhớ địa chỉ) lấy 1.900.000đ. Tổng số tiền21.900.000đ C đã chi tiêu hết (BL 67->77).
Ngày 15/11/2018, Ngô Quốc C đến Công an thành phố T đầu thú (BL 06->08).
Ngày 20/11/2018, sau khi biết là tài sản do phạm tội mà có, anh NguyễnVăn C đã tự nguyện giao nộp chiếc xe máy 36B3-828.86 cho cơ quan điều tra và yêu cầu Ngô Quốc C phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 20.000.000đ (BL 28).
Tại bản kết luận định giá tài sản số 126/KL-HĐĐGTS ngày 12/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Chiếc xe máy SH Mode có giá trị 35.750.000đ, chiếc điện thoại OPPO F3 có giá trị 4.041.000đ. Tổng giá trị tài sản bị xâm hại là 39.791.000đ.
Tại bản cáo trạng số 41/CT-VKS-TPTH ngày 07/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân TP Thanh Hoá đã truy tố bị cáo Ngô Quốc C về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 2 Điều 56, điểm a khoản 1 Điều 55, khoản 5 Điều 65, Điều 38, Điều 48 của Bộ luật hình sự đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 24 tháng tù đến 27 tháng tù, tổng hợp với 12 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 86/2018/HS-STngày 26/4/2018 của TAND TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Về trách nhiệm dân sự đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại theo quy định của pháp luật.
Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theoquy định của pháp luật.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung truy tố của cáo trạng và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị hại, đại diện của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP T, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, bị hại, người đại diện của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa hôm nay Ngô Quốc C khai nhận: Do có mục đích chiếm đoạt tài sản nên khoảng 03 giờ ngày 09/11/2018, tại số nhà 09/35 N, phường Đ, TP T, C đã lợi dụng sơ hở của chủ tài sản, lén lút chiếm đoạt chiếc xe máy SH Mode, BKS 36B3-828.86 có giá trị 35.750.000đ của chị Trần Thị Ngọc T và chiếc điện thoại di động OPPO F3 có giá trị 4.041,000đ của anh Đỗ Ngọc S, tổng giá trị tài sản C chiếm đoạt là 39.791.000đ. Tài sản sau khi chiếm đoạt C đã mang đi bán lấy 21.900.000đ và chi tiêu cá nhân. Ngày 15/11/2018, Ngô Quốc C đến Công an TP T đầu thú.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, lời khai của bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và khung hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T làđúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của người bị hại trong quản lý tài sản nên đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, thể hiện bị cáo là người rất liều lĩnh và táo bạo, coi thường pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Ngày 28/4/2018, Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt bị cáo 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích, bị cáo không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm mà lần này lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do đó lần phạm tội này, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự và áp dụng khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo của bản án hình sự sơ thẩm số 86/2018/HS-ST ngày 26/4/2018 của TAND T, tỉnh Thanh Hóa và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên, quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 của Bộ luật hình sự; Ngày 15/11/2018, Ngô Quốc C đến Công an thành phố Thanh Hóa đầu thú là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Vì vậy nên áp dụng các quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.
[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Trần Thị Ngọc T đã nhận lại chiếc xe máy SH Mode, BKS 36B3-828.86 và không có yêu cầu gì nên Tòa án không xem xét.
Bị hại Đỗ Ngọc S yêu cầu bị cáo trả lại cho anh S chiếc điện thoại di độngOPPO F3 nếu không trả được điện thoại thì bồi thường cho anh 4.990.000đ.
Chiếc điện thoại di động mà C trộm cắp được của anh S, C đã bán cho một cửa hàng điện thoại ở T, tỉnh B (không nhớ địa chỉ), Cơ quan điều tra không thu giữ được. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đồng ý bồi thường cho anh S 4.990.000đ. Vì vậy yêu cầu bồi thường của anh S có cơ sở để chấp nhận.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn C đã tự nguyện giao nộp chiếc xe máy 36B3-828.86 cho cơ quan điều tra và yêu cầu Ngô Quốc C phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 20.000.000đ mà bị cáo cầm cố xe máy cho anh C, tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường cho anh C số tiền này. Yêu cầu bồi thường của anh C là có căn cứ.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
[7]. Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 6; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 2 Điều 56, điểm a khoản 1 Điều 55, khoản 5 Điều 65, Điều 38, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14.
Tuyên bố: Bị cáo Ngô Quốc C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Ngô Quốc C 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Tổng hợp với 12 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 86/2018/HS-ST ngày 26/4/2018 của TAND TP T, tỉnh Thanh Hóa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 36 (ba mưoi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/11/2018 được trừ đi 06 ngày tạm giữ (từ ngày 13/01/2018 đến ngày19/01/2018) của bản án hình sự sơ thẩm số 86/2018/HS-ST ngày 26/4/2018 của TAND TP T, tỉnh Thanh Hóa.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Ngô Quốc C bồi thường cho anh Đỗ Ngọc S 4.990.000đ, bồi thường cho anh Nguyễn Văn C 20.000.000đ.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành án thì hàng tháng bên thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 1.249.500đ án phí dân sự sơ thẩm.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7,9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, đại diện của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc ngày niêm yết) bản án./.
Bản án 42/2019/HS-ST ngày 30/01/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 42/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về