Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 42/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2019 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN

Ngày 26 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 418/2018/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2018, về tranh chấp: “Yêu cầu ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2019/QĐST-HNGĐ ngày 27/6/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2019/QĐST-HPT ngày 12/7/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị B; sinh năm: 1986.

Địa chỉ: Tổ 8, thôn P, xã Đ, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Bị đơn: Ông Vũ Thanh H, sinh năm: 1968.

Địa chỉ: Tổ 8, thôn P, xã Đ, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

(Bà B có đơn xin xét xử vắng mặt, ông H vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, các văn bản làm việc tại Toà án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị B trình bày:

Bà Nguyễn Thị B và ông Vũ Thanh H có tìm hiểu nhau, có tổ chức lễ cưới, hôn nhân tự nguyện. Đăng ký kết hôn vào ngày 05/3/2010 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu tuẫn là do không hợp tính nhau và không tin tưởng nhau trong chuyện làm ăn. Bà B và ông H sống ly thân từ tháng 01/2017 đến nay. Nay bà B yêu cầu giải quyết: 

Về quan hệ hôn nhân: Bà B yêu cầu được ly hôn với ông Vũ Thanh H.

Về con chung: Bà B và ông H có 02 con chung là cháu Vũ Quỳnh A, sinh ngày 25/11/2009; cháu Vũ Đăng K, sinh ngày 11/10/2014. Bà B có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Vũ Quỳnh A, sinh ngày 25/11/2009; cháu Vũ Đăng K, sinh ngày 11/10/2014. Bà B yêu cầu ông H cấp dưỡng để bà B nuôi con chung với mức 1.000.000đ/01 tháng/01 người con chung (tính cho 02 cháu là 2.000.000đ/01 tháng) cho đến khi cháu A, cháu K đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Bà B và ông H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà B và ông H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Vũ Thanh H không đến tòa án để tham gia phiên tòa.

Tại bản tự khai ngày 18/01/2019 ông H khai:

Ông Vũ Thanh H và bà Nguyễn Thị B có tìm hiểu nhau, có tổ chức lễ cưới, hôn nhân tự nguyện. Đăng ký kết hôn vào ngày 05/3/2010 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do không hợp tính nhau và không tin tưởng nhau trong chuyện làm ăn. Bà B và ông H sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Nay bà B yêu cầu giải được ly hôn với ông H thì ông H đồng ý ly hôn.

Về con chung: Bà B và ông H có 02 con chung là cháu Vũ Quỳnh A, sinh ngày 25/11/2009; cháu Vũ Đăng K, sinh ngày 11/10/2014. Bà B có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Vũ Quỳnh A, sinh ngày 25/11/2009; cháu Vũ Đăng K, sinh ngày 11/10/2014 thì ông H đồng ý để bà B nuôi dưỡng cháu A và cháu K.

Về tài sản chung: Ông H và bà B tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông H và bà B tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Về tố tụng Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án là đúng theo quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án bà B và ông H chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn. Sau đó phát sinh mâu thuẫn. Bà B yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà B được ly hôn với ông H nên Tòa án cần xử chấp nhận yêu cầu của bà B. Về con chung bà B và ông H có 02 con chung là cháu Vũ Quỳnh A, sinh ngày 25/11/2009; cháu Vũ Đăng K, sinh ngày 11/10/2014. Bà B có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Vũ Quỳnh A, cháu Vũ Đăng K; Bà B yêu cầu ông H cấp dưỡng để bà B nuôi con chung với mức 1.000.000đ/01 tháng/01 người con chung (tính cho 02 cháu là 2.000.000đ/01 tháng) cho đến khi cháu A, cháu K đủ 18 tuổi thì Tòa án cần chấp nhận. Về tài sản chung và nợ chung bà B không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này bà B, ông H có tranh chấp về tài sản chung thì dành quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị B và ông Vũ Thanh H có tìm hiểu nhau, có tổ chức lễ cưới, hôn nhân tự nguyện. Đăng ký kết hôn vào ngày 05/3/2010 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Nay bà B yêu cầu ly hôn nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình; Nơi cư trú của ông Vũ Thanh H là xã Đ, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nên Tòa án nhân dân huyện Châu Đức thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 36; khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Ông Vũ Thanh H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt ông H là đúng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà B có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt bà B là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị B và ông Vũ Thanh H có tìm hiểu nhau, có tổ chức lễ cưới, hôn nhân tự nguyện. Đăng ký kết hôn vào ngày 05/3/2010 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà Bé là do không hợp tính nhau và không tin tưởng nhau trong chuyện làm ăn. Bà B và ông H sống ly thân từ tháng 01/2017 đến nay. Còn theo ông H thì nguyên nhân mâu thuẫn là do không hợp tính nhau và không tin tưởng nhau trong chuyện làm ăn. Sau khi thụ lý đơn yêu cầu ly hôn của bà B, Tòa án đã triệu tập ông H để làm việc và hoà giải về quan hệ hôn nhân để bà B và ông H tiếp tục sống với nhau nhưng ông H chỉ đến Tòa án ghi bản tự khai, sau đó ông H không đến tòa án để làm việc. Như vậy giữa bà B và ông H có mâu thuẫn, bà B và ông H sống ly thân là có thật. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa bà B và ông H ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho bà Nguyễn Thị B được ly hôn với ông Vũ Thanh H.

[3] Về con chung: Bà B và ông H có 02 con chung là cháu Vũ Quỳnh A, sinh ngày 25/11/2009; cháu Vũ Đăng K, sinh ngày 11/10/2014. Bà B có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Vũ Quỳnh A, sinh ngày 25/11/2009; cháu Vũ Đăng K, sinh ngày 11/10/2014 và ông H đồng ý để bà B nuôi dưỡng cháu A và cháu K. Do đó xử cho bà B được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu cháu Vũ Quỳnh A, sinh ngày 25/11/2009; cháu Vũ Đăng K, sinh ngày 11/10/2014. Bà B yêu cầu ông H cấp dưỡng để bà B nuôi con chung với mức 1.000.000đ/01 tháng/01 người con chung (tính cho 02 cháu là 2.000.000đ/01 tháng) cho đến khi cháu A, cháu K đủ 18 tuổi. Yêu cầu này của bà B là phù hợp nên cần chấp nhận.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà B không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này bà B, ông H có tranh chấp về tài sản chung thì dành quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

[5] Về án phí: Bà B phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí. Ông H nộp 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 36; khoản 1 Điều 39; khoản 1, khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho bà Nguyễn Thị B được ly hôn với ông Vũ Thanh H.

Về quan hệ con chung:

Bà B và ông H có 02 con chung là cháu Vũ Quỳnh A, sinh ngày 25/11/2009; cháu Vũ Đăng K, sinh ngày 11/10/2014.

Xử cho bà B được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu Vũ Quỳnh A, sinh ngày 25/11/2009; cháu Vũ Đăng K, sinh ngày 11/10/2014.

Ông H cấp dưỡng để bà B nuôi con chung với mức 1.000.000đ/01 tháng/01 người con chung (tính cho 02 cháu là 2.000.000đ/01 tháng) cho đến khi cháu A, cháu K đủ 18 tuổi. Ngày giao tiền cấp dưỡng là ngày 15 hàng tháng.

Kể từ khi bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu bên phải thi hành án chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo quy định Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ông Vũ Thanh H được quyền thăm nom con chung mà mình không trực tiếp nuôi dưỡng không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con hoặc yêu cầu người không trực tiếp nuôi dưỡng con phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung:

Bà B, ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này bà B, ông H có tranh chấp về tài sản chung thì dành quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

Về án phí:

Bà Nguyễn Thị B phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ mà bà B đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Đức theo biên lai số: TU/2017/0005000 ngày 03/12/2018, bà Bé đã nộp xong án phí.

Ông Vũ Thanh H nộp 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26-7-2019), đương sự có quyền kháng cáo; đối với bà B, ông H vắng mặt thì thời hạn này được tính kể từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt hoặc niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

(Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

379
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

Số hiệu:42/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Đức - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về