Bản án 42/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 42/2018/HS-ST NGÀY 29/06/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 29 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:39/2018/HS-ST ngày 24-5-2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2018/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Đặng Thị K A, sinh năm: 1990 tại: tỉnh An Giang. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và cư trú hiện nay: khóm Tr A, phường M Th, thành phố L X, tỉnh A G. Nghề nghiệp: nội trợ. Trình độ học vấn: 05/12. Con ông: Đặng V Đ, sinh năm 1965 và bà Nguyễn T Ơ, sinh năm 1967. Em ruột: Có 01 người. Chồng: Phùng M L, sinh năm 1984 (đã ly hôn). Con: có 01 người sinh năm 2008. Tiền án, tiền sự: không có. Bị cáo bị tạm giữ ngày 18/3/2018, chuyển tạm giam ngày 27/3/2018 – có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Đỗ D T, sinh năm 1990.

Địa chỉ: ấp H B, xã H Đ, huyện C Th, tỉnh T Gg – có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi Đặng Thị K A đang ở khu vực Cầu Đôi thuộc khu du lịch Núi Bà, nhìn thấy anh Đỗ D T, sinh năm 1990, ngụ ấp H B, xã H Đ, huyện C Th, tỉnh T Gg đang bế con, trên cổ đeo sợi dây chuyền vàng 24K, trọng lượng 10 chỉ, Đặng Thị K A đi lại phía sau lưng anh Đỗ D T, dùng tay trái nắm lấy sợi dây chuyền, giật lấy được một đoạn dây chuyền dài khoảng 20cm, trọng lượng 3,79 chỉ, bỏ đi và chuyển sang cầm trên tay phải (đoạn dây chuyền còn lại rơi mất, không xác định được). Lúc này, anh Đỗ D T phát hiện liền đưa con cho em mình, vừa đuổi theo và tri hô “cướp, cướp” và khi chạy đến đầu Cầu

Đôi, trước quầy bán nem của chị Đặng Thị Thu Nhàn, sinh năm 1993, ngụ ấp Trường, xã Hảo Đước, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh thì khống chế bắt giữ, anh Đỗ D T nắm lấy tay phải và thu lại đoạn dây chuyền vàng Đặng Thị K A đang cầm trên tay, cùng lúc này có anh Đặng Thanh Long, sinh năm 1980 và anh Đặng Chí Linh, sinh năm 1988 là nhân viên bảo vệ núi Bà Đen chạy đến hỗ trợ, đưa về chốt bảo vệ, điện báo Công an đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

* Kết luận định giá tài sản số 19/KLĐG-TTHS ngày 27-3-2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Tây Ninh, kết luận: vào ngày 18-3-2018, dây chuyền vàng 24K, 09 tuổi 08, số lượng: 10 chỉ, giá định 35.500.000 đồng; đoạn sợi dây chuyền vàng 24K, 09 tuổi 08, số lượng: 3,79 chỉ, giá định 13.454.500 đồng.

* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: trả cho bị hại Đỗ D T đoạn sợi dây chuyền vàng 24K, 09 tuổi 08, số lượng: 3,79 chỉ, giá định 13.454.500 đồng.

* Về bồi thường thiệt hại: Anh Đỗ D T yêu cầu bồi thường thiệt hại đoạn dây chuyền còn lại, trị giá 22.045.500 đồng. Đặng Thị K A đồng ý nhưng chưa bồi thường.

Tại Cơ quan điều tra Công an thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, Đặng Thị K A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện.

Tại bản Cáo trạng số: 43/QĐ-KSĐT, ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Đặng Thị K A về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 171 Bộ luật hìnhsự.

Quá trình xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố bị cáo Đặng Thị K A về tội danh và đưa ra các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ theo các điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự.

Do đó, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh đề nghị Hội đồng xét xử cần phải áp dụng một mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Đặng Thị K A phạm tội “Cướp giật tài sản”;

- Đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 171; Điểm b, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

Xử phạt bị cáo Đặng Thị K A từ 15 (Mười lăm) tháng đến 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định áp dụng về xử lý vật chứng và các nội dung khác liên quan đến việc giải quyết vụ án.

Phần tranh luận, bị cáo Đặng Thị K A không có tranh luận và tại lời nói sau cùng bị cáo trình bày: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt để sớm đoàn tụ gia đình, trở thành công dân tốt, lo con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố thì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 18-3-2018, Đặng Thị K A đã thực hiện hành vi cướp giật một sợi dây chuyền vàng 24K (9 tuổi 8), số lượng 10 chỉ của anh Đỗ D T, trị giá: 35.500.000 đồng. Hành vi của Đặng Thị K A là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác một cách trái pháp luật, nên phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi đã thực hiện.

Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Thị K A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như Kết luận điều tra; Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh đã truy tố và trong các tài liệu chứng cứ lưu hồ sơ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh đã truy tố là đúng người, đúng tội.

[3] Trong khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạttương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong tình hình tội phạm gia tăng hiện nay. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Đặng Thị K A đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho anh Đỗ D T số tiền 22.045.500 (Hai mươi hai triệu không trăm bốn lăm nghìn năm trăm) đồng và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điểm b, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 171 Bộ luật hình sự thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu,  chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo không có thu nhập, điều kiện kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

Cơ quan điều tra trả bị hại Đỗ D T đoạn sợi dây chuyền vàng 24K, 09 tuổi 08, số lượng: 3,79 chỉ, giá định 13.454.500 đồng.

[6] Về bồi thường thiệt hại:

Tại phiên tòa, anh Đỗ D T trình bày đã nhận được phần yêu cầu bồi thường thiệt hại đoạn dây chuyền trị giá 22.045.500 (Hai mươi hai triệu không trăm bốn lăm nghìn năm trăm) đồng của bị cáo Đặng Thị K A và anh Đỗ D T không yêu cầu bồi thường gì khác cần ghi nhận. Ngoài ra, anh Đỗ D T có Đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đặng Thị K A là tình tiết quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật tố tụng Hình sự.

 [7] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đặng Thị K A phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Thị K A phạm tội “Cướp giật tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng Khoản 1 Điều 171; Điểm b, s Khoản 1; Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết số: 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

Xử phạt bị cáo Đặng Thị K A 01 (Một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18-3-2018.

2. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Đặng Thị K A.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Cơ quan điều tra trả bị hại Đỗ D T đoạn sợi dây chuyền vàng 24K, 09 tuổi 08, số lượng: 3,79 chỉ, giá định 13.454.500 đồng.

Ghi nhận bị cáo Đặng Thị K A đã bồi thường thiệt hại đoạn dây chuyền trị giá 22.045.500 (Hai mươi hai triệu không trăm bốn lăm nghìn năm trăm) đồng cho anh Đỗ D T xong và anh Đỗ D T không yêu cầu gì khác.

4. Án phí: Bị cáo Đặng Thị K A phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án sơ thẩm hình sự xử công khai báo cho bị cáo, những người tham gia tố tụng biết có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:42/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về