Bản án 42/2018/DS-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 42/2018/DS-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 30.11.2018, tại trụ sở, Toà án nhân dân Quận Hai Bà Trưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 65/2018/TLST-DS ngày 10 tháng 05 năm 2018 về tranh chấp Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2018/QĐXXST-DS ngày 22/10/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 103/2018/QĐHPT-ST ngày 09 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự: 

Nguyên đơn: Ngân hàng S

Trụ sở: phường T, Quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D, chức vụ - Tổng Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Hữu P, chức vụ - Giám đốc Trung tâm thẻ. (Theo giấy ủy quyền số 4213/GUQ-PL&TT ngày 28 tháng 12 năm 2017). Vắng mặt tại phiên tòa.

Người được ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Nguyễn Tất T – Nhân viên ngân hàng (Theo giấy ủy quyền số 066/GUQ-PL&TT ngày 23 tháng 01 năm 2018). Có mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Bà Trần Nguyễn Việt H– sinh năm 1979

HKTT: phố V, phường L, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa, nguyên đơn là Ngân hàng S do anh Nguyễn Tất T đại diện trình bày:

Ngày 19/10/2010, bà Trần Nguyễn Việt H có ký với Ngân hàng S hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng (bao gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ. Tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Căn cứ vào thu nhập của bà H, Ngân hàng đã đồng ý cấp cho bà H thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 15.000.000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Hình thức đảm bảo cấp thẻ là tín chấp. Trường hợp sử dụng vượt hạn mức thì chủ thẻ có trách nhiệm thanh toán với tất cả các giao dịch và tiền phí phát sinh do vượt quá hạn mức. Lãi suất trong hạn là 2,15%, lãi quá hạn là 150% lãi trong hạn. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 14.236.700 đồng.

Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay, bà H đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền là 17.140.343 đồng. Thứ tự thanh toán căn cứ theo điều 20 của bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng. Đến ngày 15/08/2013, bà H không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng. Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng bà H không có thiện trí trả nợ. Do bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 2 của bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng), ngày 16/11/2013, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ tín dụng và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (Điều 23 bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Tính đến ngày 09/11/2017, Ngân hàng S xác nhận bà Trần Nguyễn Việt H còn nợ các khoản tiền gồm:

Nợ gốc: 7.690.720 đồng; Lãi quá hạn: 12.021.672 đồng. Tổng cộng: 19.712.392 đồng.

Nay Ngân hàng S đề nghị Tòa án buộc bà Trần Nguyễn Việt H phải thanh toán ngay cho Ngân hàng toàn bộ khoản tiền nợ gốc 7.690.720 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh từ Hợp đồng cấp thẻ tín dụng cho đến khi bà Trần Nguyễn Việt H trả dứt nợ cho Ngân hàng và các chi phí phát sinh. Ngoài ra Ngân hàng không có yêu cầu gì khác.

2. Bị đơn bà Trần Nguyễn Việt H vắng mặt không có lý do không có bản tự khai.

Quá trình tiến hành tố tụng trong đơn khởi kiện, người khởi kiện Ngân hàng S có ghi đầy đủ cụ thể, đúng địa chỉ của người bị kiện là bà Trần Nguyễn Việt H, có địa chỉ tại Phố V, phường L, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Quá trình giải quyết vụ án, Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng đã tiến hành xác minh, trao đổi với Công an phường L, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Kết quả xác minh, bị đơn bà Trần Nguyễn Việt H có hộ khẩu tại thường trú và nơi ở tại phố V, phường L, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội là đúng nhưng hiện nay bà H và gia đình đã bán nhà và chuyển đi nơi cư trú mới từ tháng 12/2017. Bà H chuyển đi đâu không rõ vì không thông báo với chính quyền địa phương. Hiện bà H đang cư trú ở đâu thì Công an phường L không rõ nên không thể cung cấp. Vì vậy Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng đã tiến hành niêm yết tất cả các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Để giải quyết theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tại phiên tòa ngày 09/11/2018, bị đơn bà Trần Nguyễn Việt H vắng mặt không có lý do. Phiên tòa tiếp theo được ấn định vào ngày 30/11/2018. Tòa án nhân dân quân Hai Bà Trưng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng bà H vẫn tiếp tục vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Vì vậy, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn bà Trần Nguyễn Việt H theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa: Ngân hàng vẫn giữ nguyên quan điểm khởi kiện như đã trình bày, theo Hợp đồng cấp thẻ tín dụng: số nợ bà H phải thanh toán là 22.912.108 đồng, trong đó nợ gốc là 7.690.720 đồng, lãi quá hạn là 15.221.388 đồng tính đến ngày 30/11/2018 (ngày xét xử sơ thẩm).

Đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục tính lãi trên số nợ gốc chưa thanh toán kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi bà H thực hiện xong tất cả các nghĩa vụ thanh toán.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa có quan điểm:

Về tố tụng: Trong quá trình khởi kiện, thụ lý hồ sơ và giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đầy đủ, đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, đảm bảo tính khách quan, công minh và tạo điều kiện cho các bên đương sự thực hiện đúng, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Đối với việc vắng mặt của bà Trần Nguyễn Việt H mặc dù đã được tống đạt hợp lệ, vì vậy căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

1. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng S đối với bà Trần Nguyễn Việt H về tranh chấp Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng.

2. Buộc bà Trần Nguyễn Việt H phải thanh toán trả cho Ngân hàng S tổng số tiền còn nợ là: 22.912.108 đồng (trong đó tiền nợ gốc là 7.690.720 đồng và tiền lãi quá hạn đến ngày 30/11/2018 là 15.221.388 đồng), theo giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 19/10/2010 và bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng S.

Kể từ ngày kế tiếp sau ngày xét xử sơ thẩm bà Trần Nguyễn Việt H tiếp tục chịu lãi suất đối với khoản nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận trong Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng, tương ứng với thời gian chậm trả cho đến khi bà H thực hiện xong tất cả các nghĩa vụ thanh toán.

3.Về án phí: Bà Trần Nguyễn Việt H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Căn cứ vào đơn khởi kiện, nguyên đơn Ngân hàng S khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Trần Nguyễn Việt H phải thanh toán số tiền nợ là 19.712.392 đồng, trong đó nợ gốc là 7.690.720 đồng, lãi quá hạn là 12.021.672 đồng tính đến ngày 09/11/2017, theo hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đã ký kết ngày 19/10/2010 nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng tín dụng. Vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo quy định tại Khoản 1 Điều 26, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bà Trần Nguyễn Việt H có hộ khẩu thường trú và nơi ở tại phố V, phường L, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Căn cứ theo điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

- Về thủ tục xét xử vắng mặt bị đơn: Bị đơn là bà Trần Nguyễn Việt H có địa chỉ rõ ràng trong khi thực hiện hợp đồng, khi vi phạm nghĩa vụ dân sự, bà H và gia đình đã bán nhà và chuyển đi nơi cư trú mới từ tháng 12/2017. Bà H chuyển đi đâu không rõ vì không thông báo với chính quyền địa phương. Hiện bà H đang cư trú ở đâu thì Công an phường không rõ nên không thể cung cấp. Do vậy Tòa án tống đạt bằng phương thức niêm yết công khai văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng bà H vẫn vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do. Theo quy định tại điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị Quyết số 04 ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà Trần Nguyễn Việt H là phù hợp với quy định pháp luật.

2. Về nội dung:

Ngày 19/10/2010, Ngân hàng S ký hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng với bà Trần Nguyễn Việt H với hạn mức sử dụng là 15.000.000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Hình thức đảm bảo cấp thẻ là tín chấp. Trường hợp sử dụng vượt hạn mức thì chủ thẻ có trách nhiệm thanh toán với tất cả các giao dịch và tiền phí phát sinh do vượt quá hạn mức. Lãi suất trong hạn là 2,15%, lãi quá hạn là 150% lãi trong hạn. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 14.236.700 đồng và đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền là 17.140.343 đồng. Đến ngày 15/08/2013, bà H không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng sự dụng thẻ tín dụng đã ký, như vậy bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 22 và Điều 23 của bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng), và ngày 16/11/2013 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ tín dụng chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu gồm nợ gốc, phí trễ hạn, lãi trong hạn và phí sử dụng thẻ (lãi suất phát sinh từ ngày 16/11/2013 đến ngày 08/8/2018) được chuyển thành gốc và được Ngân hàng chuyển sang dư nợ chưa thanh toán và tính lãi suất quá hạn đối với toàn bộ số nợ chưa thanh toán này. Hiện bà H còn nợ Ngân hàng số tiền nợ gốc là 7.690.720 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh từ hợp đồng trên.

Xét thấy Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng ngày 19/10/2010 được hai bên ký kết tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật. Các bên có đủ năng lực tham gia giao dịch dân sự, mục đích, nội dung và hình thức của hợp đồng theo đúng quy định của pháp luật nên căn cứ vào Điều 122 Bộ luật dân sự 2005 xác định hợp đồng là hợp pháp, các bên có nghĩa vụ thực hiện. Quá trình sử dụng thẻ bà Trần Nguyễn Việt H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của bà H và chuyển các khoản nợ sang nợ quá hạn. Do vậy việc Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà H phải thanh toán các khoản tiền chưa thanh toán, gồm nợ gốc,lãi quá hạn là phù hợp với thỏa thuận của các bên được quy định tại hợp đồng cấp thẻ tín dụng. Tính đến ngày 30/11/2018, bà H phải thanh toán các khoản tiền phát sinh từ hợp đồng sự dụng thẻ tín dụng như sau: Số tiền nợ gốc chưa thanh toán là 7.690.720 đồng, lãi quá hạn: 15.221.388 đồng. Tổng cộng là 22.912.108 đồng.

Để đảm bảo quyền lợi cho người thi hành án, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 điều 305 Bộ luật dân sự 2005 buộc bà H phải chịu lãi suất của số tiền chưa thi hành án.

Từ những phân tích trên, căn cứ điều 471, 474, 476 Bộ luật dân sự năm 2005, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng S đối với bà Trần Nguyễn Việt H về việc yêu cầu thanh toán nợ theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 19/10/2010 , buộc bà Trần Nguyễn Việt H phải thanh toán trả cho Ngân hàng số tiền là 22.912.108 đồng (tính đến ngày 30/11/2018), trong đó, nợ gốc là 7.690.720 đồng, lãi quá hạn: 15.221.388 đồng.

3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ theo quy định điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 2 điều 26 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà Trần Nguyễn Việt H phải chịu số tiền án phí là 1.145.605 đồng.

Ngân hàng S được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí là 505.831 đồng theo biên lai thu số 0003806 ngày 03/05/2018 của chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại điều 271 và điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điều 122, khoản 2 Điều 305, các Điều 471, 474, 476 của Bộ luật dân sự năm 2005.

- Điều 90, Điều 91, Điều 94, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về múc thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Điều 26 Luật thi hành án dân sự.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng S đối với Trần Nguyễn Việt H về tranh chấp Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 19/10/2010.

Buộc bà Trần Nguyễn Việt H phải thanh toán trả cho Ngân hàng S tổng số tiền còn nợ tạm tính đến ngày xét xử 30/11/2018 là 22.912.108 đồng, trong đó, nợ gốc là 7.690.720 đồng, lãi quá hạn: 15.221.388 đồng. theo giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 20/7/2011 và bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng S.

Kể từ ngày kế tiếp sau ngày xét xử sơ thẩm bà Trần Nguyễn Việt H tiếp tục chịu lãi suất đối với khoản nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận trong Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng, tương ứng với thời gian chậm trả cho đến khi trả xong nợ gốc cho Ngân hàng S.

3.Về án phí: Bà Trần Nguyễn Việt H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.145.605 đồng. Ngân hàng S được hoàn lại số tiền 505.831 đồng dự phí đã nộp theo Biên lai số 0003806 ngày 03/05/2018 tại Cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điêu 2 của Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7 và 9 của luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể tù ngày nhận được bản sao bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2018/DS-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:42/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về