Bản án 42/2018/DS-ST ngày 09/10/2018 về tranh chấp bồi thường thiệt hại tính mạng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 42/2018/DS-ST NGÀY 09/10/2018 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TÍNH MẠNG

Trong ngày 09 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 80/2017/TLST-DS, ngày 08/5/2017 về việc tranh chấp kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2018/QĐXXST-DS, ngày 10 tháng 9 năm 2018.

Nguyên đơn 1: - Bà Nguyễn Thị A - Sinh năm: 1972 (Có mặt)

- Chị Võ Như N – Sinh năm: 1989 (Có mặt)

- Anh Võ Như Ng – Sinh năm: 1991 (Có mặt)

- Anh Võ Ngọc H – Sinh năm: 1994 (Vắng mặt)

- Chị Võ Thị C – Sinh năm: 1997 (Có mặt).

Bà A là người đại diện quyền và lợi ích hợp pháp của anh H - là mẹ ruột của anh Hiệp (Do anh H bị hạn chế về mặt nhận thức được hưởng trợ cấp khuyết tật) Cùng địa chỉ: Tổ 3, ấp T, xã T, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Nguyên đơn 2: - Bà Bùi Thị Đ – Sinh năm: 1977 (Có mặt)

- Ông Võ Văn H – Sinh năm: 1930 (Vắng mặt)

- Bà Trần Thị D – Sinh năm: 1938 (Vắng mặt)

- Cháu Võ Bùi Anh T – Sinh ngày: 19/5/2003 (Vắng mặt)

- Cháu Võ Bùi Anh N – Sinh ngày: 26/12/2006 (Vắng mặt)

Người đại diện quyền và lợi ích hợp pháp của cháu Anh T và Anh N là bà Bùi Thị Đ (Mẹ ruột)

Cùng địa chỉ: Tổ 3, ấp T, xã T, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Ông H – bà D ủy quyền cho ông Võ Văn E – Sinh 1968; Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (Ông Em có mặt).

Bị đơn: Anh Lê Quốc T - Sinh năm: 1996 (Vắng mặt).

Địa chỉ: ấp H, xã Đ, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Danh Thị Thu Đ – Sinh năm: 1978 (Có mặt).

Địa chỉ: ấp H, xã Đ, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

Anh Thắng ủy quyền cho bà Danh Thị Thu Đ – Sinh 1978; Địa chỉ: ấp Hòa Thiện, xã Định Hòa, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Danh Thị Thu Đ: Ông Trần Hữu Phúc – Luật sư cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Kiên Giang

(Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tại phiên Tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị A, chị Võ Như N, anh Võ Như Ng và chị Võ Thị C trình bày:

Vào lúc 19 giờ 20 phút ngày 12/9/2016, ông Võ Văn M là chồng và cha của các nguyên đơn ngồi phía sau xe gắn máy biển số 68T6-5119 do ông Võ Văn C điều khiển, đi làm từ Rạch Giá về đến đoạn đường gần cầu Tượng đài chiến sĩ (thuộc địa điểm ấp T, xã T) thì xảy ra va chạm giao thông với xe ô tô 7 chổ biển số 68A-015.96 chạy ngược chiều do tài xế Lê Quốc T điều khiển. Vụ va chạm trên dẫn đến ông M và ông C chết. Các nguyên đơn xác định người gây tai nạn có lỗi vì đã cán chết người. Việc ông M chết đã làm thiệt hại và tổn thất tinh thần cho vợ và các con của ông M. Bởi ông M chính là lao động chính trong gia đình và phải chăm sóc con khuyết tật. Nay các nguyên đơn yêu cầu người gây tai nạn là anh T và chủ phương tiện là bà Đ bồi thường thiệt hại tính mạng của ông Võ Văn M gồm: Chi phí mai táng, ma chay, mồ mã là 38.965.000 đồng; Tiền tổn thất tinh thần 60 tháng lương x cho mức lương cơ sở 1.390.000 đồng là 84.000.000 đồng. Ngoài ra, buộc anh T, bà Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi anh Võ Ngọc H mỗi tháng là 1.210.000 đồng do anh H bị khuyết tật, không lao động được. Các nguyên đơn xác định khi vụ việc xảy ra, phía gia đình anh T, bà Thu Đ có giao trước số tiền là 20.000.000 đồng làm mai táng phí.

Theo đơn khởi kiện và tại phiên Tòa, nguyên đơn bà Bùi Thị Đ và là người đại diện quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng nguyên đơn Võ Bùi Anh T, Võ Bùi Anh N; Người đại diện theo ủy quyền của ông Võ Văn H, bà Trần Thị D trình bày: Cũng vào khoảng thời gian và tại địa điểm như phía nguyên đơn gia đình ông M đã nêu. Ông C và ông M là hai anh em ruột, ông C là người điều khiển xe phía sau chở ông M ngồi sau. Qua vụ việc va chạm giao thông trên đã làm ông C chết tại chỗ. Lỗi là do tài xế T điều khiển xe thiếu quan sát, dẫn đến cán chết người mà không có dấu vết phanh xe. Mặc khác, tại thời điểm trên thời tiết mưa gió tài xế phải chạy tốc độ như thế nào thì mới cán chết ông M và ông C. Và khi cán phải người mà xe còn tiếp tục chạy thêm 4 đến 5m và bánh xe ô tô còn để lại dấu vết áo đi mưa của ông M, ông C. Việc ông C chết đã làm thiệt hại và tổn thất tinh thần đối với cha mẹ, vợ và các con của ông C. Vì vậy các nguyên đơn yêu cầu anh T và bà Đ cùng liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại tính mạng của ông Võ Văn C gồm các khoản sau: Chi phí mai táng, ma chay, mổ mã là 37.035.000 đồng; Tiền tổn thất tinh thần là 60 tháng lương cơ sở x 1.390.0000 đồng là 84.000.000 đồng. Ngoài ra, buộc anh T, bà Đ còn có nghĩa vụ trợ cấp nuôi dưỡng ông H, bà D mỗi người là 1.390.000 đồng/tháng; Cấp dưỡng nuôi hai con của ông C là Anh T, Anh N mỗi người là 1.800.000 đồng/tháng cho đến khi hai cháu đủ 18 tuổi. Bởi ông C là lao động chính trong gia đình, hai con của ông C còn nhỏ và có trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ già.

Tại bản tự khai, bị đơn anh Nguyễn Quốc T xác định: Vụ tai nạn giao thông xảy ra vào lúc 19 giờ 20 phút ngày 12/9/2016 giữa xe ô tô anh điều khiển với xe máy ông C điều khiển chở ông M phía sau, hậu quả xe ô tô anh điều khiển cán chết. Tuy nhiên, việc ông M ông C chết không thuộc về lỗi của anh, anh đã chấp hành đúng quy định Luật giao thông đường bộ, trong khi ông C điều khiển xe không làm chủ tay lái té ngã vào xe anh điều khiển dẫn đến tai nạn trên. Vì vậy, anh không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của các nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Danh Thị Thu Đ và là người đại diện theo ủy quyền của anh T trình bày: Bà xác định thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn theo nguyên đơn trình bày là đúng. Tuy nhiên trong vụ việc tai nạn trên người điều khiển xe ôtô không có lỗi. Bản thân anh T chạy chấp hành đúng quy định của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, không uống rượu bia, chạy đúng tốc độ và đúng phần đường và có đầy đủ giấy phép lái xe. Lỗi là do phía ông C điều khiển xe nhưng nồng độ cồn trong máu vượt mức cho phép, không làm chủ được tốc độ lạc tay lái té ngã văng ra đường ngay thời điểm xe ô tô do anh T điều khiển chạy ngược chiều nên sự kiện diễn ra bất ngờ nên T không kiểm soát được dẫn đến xe do anh T điều khiển cán phải. Trước sự việc trên gia đình đã hỗ trợ mỗi gia đình ông C, ông M số tiền là 20.000.000 để làm chi phí mai táng. Nay bà Đ và các đồng nguyên đơn yêu cầu bồi thường các khoản thiệt hại trên, anh T và bà Thu Đ không đồng ý bồi thường.

Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Danh Thị Thu Đ, ông Trần Hữu Phúc là luật sư của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Kiên Giang ý kiến: Bà Thu Đ là chủ xe ô tô do tài xế T là con trai của bà điều khiển gây tai nạn xảy ra ngày 12/9/2016 vào lúc 19 giờ 20 phút. Theo biên bản hiện trường cũng như tài liệu do Tòa án thu thập tại Cơ quan cảnh sát điều tra thể hiện hành vi của tài xế T không cấu thành tội phạm, bản thân T không vi phạm luật giao thông đường bộ nên không thể buộc bà Thu Đ phải liên đới bồi thường theo yêu cầu của các nguyên đơn. Tuy nhiên, phía gia đình các nguyên đơn đã mất đi hai sinh mạng đó là nỗi đau rất lớn, nên bà Thu Đ cũng là mẹ của anh T cũng đã tự nguyện đứng ra hỗ trợ cho phía gia đình các nguyên đơn mỗi bên số tiền là 20.000.000 đồng để làm chi phí mai táng.

Phát biểu quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:

Về trình tự thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên Tòa và những người tham gia tố tụng trong vụ án được thực hiện đúng trình tự thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Tuy nhiên, còn vi phạm thời hạn xét xử cần chủ động hơn trong những vụ án sau.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét yêu cầu của các nguyên đơn thấy rằng tai nạn xảy ra dẫn đến ông M, ông C chết là có thật. Tuy nhiên, ông M ông C chết không phải do hành vi trái pháp luật của anh T gây ra. Anh T điều khiển xe đúng phần đường, không vi phạm quy định về giao thông đường bộ nên anh T không có lỗi. Căn cứ biên bản xác định nguyên nhân vụ tai nạn (BL 93) được xác định là do ông C điều khiển xe không làm chủ tay lái, loạng choạng trượt ngã sang lề trái gây tai nạn. Do hành vi của anh T không cấu thành tội phạm quy định tại Khoản 2 - Điều 107 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã không khởi tố vụ án hình sự. Vì vậy không đủ cơ sở để buộc anh T chịu trách nhiệm bồi thường. Và bà Thu Đ là chủ sở hữu giao xe cho anh T sử dụng anh T có giấy phép lái xe và anh T không có lỗi nên không có căn cứ buộc bà Đ phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về trình tự thủ tục tố tụng:

Các đồng nguyên đơn bà Nguyễn Thị A, chị Võ Như N, anh Võ Như Ng, anh Võ Ngọc H, chị Võ Thị C và bà Bùi Thị Đ, ông Võ Văn H, bà Trần Thị D, cháu Võ Bùi Anh T, cháu Võ Bùi Anh N khởi kiện yêu cầu anh Lê Quốc T và bà Danh Thị Thu Đ cùng liên đới bồi thường thiệt hại tính mạng cho chồng, cha và con của các đồng nguyên đơn. Đây là tranh chấp kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định tại Khoản 6 – Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Mặc khác, do thiệt hại xảy ra tại xã T, huyện Giồng Riềng và nguyên đơn đã khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng nên theo quy định tại điểm d – Khoản 1 - Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng.

[2] Về nội dung vụ án: Theo sự xác định giữa hai bên thì vụ tai nạn giao thông xảy ra vào lúc 19 giờ 20 phút ngày 12/9/2016, tại xã T, huyện Giồng Riềng giữa xe honda BS 68 T6 – 5119 do ông C điều khiển và xe ô tô 7 chổ BS 68A 015.96 do tài xế T điều khiển. Hậu quả vụ tai nạn trên khiến cho ông C và ông M bị xe ô tô 7 chỗ cán chết nên thiệt hại tính mạng xảy ra là có thật. Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai thì cần phải xác định nguyên nhân nào dẫn đến thiệt hại trên và xác định yếu tố lỗi để buộc trách nhiệm bồi thường. Phía các đồng nguyên đơn yêu cầu bà Đ và anh T cùng liên đới bồi thường thiệt hại tính mạng cho chồng, cha, con của các đồng nguyên đơn với các khoản cụ thể sau:

Các nguyên đơn bà A là người đại diện quyền và lợi ích hợp pháp của anh H; chị N; chị C; anh Ng yêu cầu bồi thường tính mạng ông M gồm: Chi phí mai táng, ma chay, mồ mã 38.965.000 đồng; Cấp dưỡng nuôi con ông M anh Võ Ngọc H bị khuyết tật mỗi tháng là 1.390.000 đồng /tháng; Tiền tổn thất tinh thần là 83.400.000 đồng.

Các nguyên đơn bà Đ, ông H, bà D yêu cầu bồi thường thiệt hại tính mạng của ông C gồm: Chi phí mai táng, ma chay, mồ mã 37.035.000 đồng; Cấp dưỡng nuôi con hai con Anh T và Anh N mỗi tháng là 1.800.000 đồng cho đến khi hai cháu đủ 18 tuổi; Tiền tổn thất tinh thần 60 tháng lương x 1.390.000 đồng/tháng là 83.400.000 đồng; Trợ cấp nuôi dưỡng ông H, bà D (cha mẹ của ông C, ông M) mỗi tháng là 1.390.000 đồng/người x 2 người = 2.780.000 đồng.

Đối với các yêu cầu trên của các nguyên đơn không được anh T và bà Thu Đ đồng ý. Xét các yêu cầu trên của các nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy thiệt hại xảy ra là có thật, hậu quả ông C và ông M đã bị xe ô tô BS 68A-015.96 do anh T điều khiển cán chết. Theo quy định tại mục 1 phần I Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đã xác định trách nhiệm bồi thường khi phải có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái pháp luật, phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật và phải có lỗi hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại. Từ các yêu cầu của các nguyên đơn thấy rằng thiệt hại xảy ra là có thật, hậu quả đã làm ông C và ông M chết làm mất mát và tổn thất tinh thần cho các nguyên đơn. Tuy nhiên, căn cứ vào các lời khai của những người chứng kiến sự việc được do Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Giồng Riềng thu thập, biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông (BL 03), sơ đồ hiện trường vụ tai nạn (BL 19), biên bản xác định nguyên nhân vụ tai nạn giao thông đường bộ (BL 93) đã xác định ông Võ Văn C người điều khiển xe phía sau chở ông M không làm chủ tay lái, loạng choạng trượt ngã sang lề trái gây tai nạn, sự việc diễn ra bất ngờ nên việc anh T người điều khiển xe ô tô cán phải dẫn đến thiệt hại tính mạng của ông C và ông M. Theo quy định tại Điều 11 của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì sự kiện bất ngờ khi người thực hiện hành vi không thấy trước hoặc buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Và cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Giồng Riềng đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự (BL 200) nên hành vi trên của anh T không được xem là hành vi trái pháp luật. Mặc khác, ông C là người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ nhưng tại biên bản kết luận giám định pháp y về hóa pháp số 492/ KL – PY xác định nồng độ cồn trong máu vượt mức cho phép 139,98 mg/100ml máu (BL 125). Bản thân anh T chấp hành nghiêm chỉnh quy định luật giao thông đường bộ có giấy phép lái xe, chạy không vượt quá tốc độ cho phép, không sử dụng rượu bia khi điều khiển. Do đó, anh T không có lỗi dẫn đến thiệt hại mà lỗi là do phía ông C người điều khiển xe Honda BS 68 T6 – 5119. Ngoài ra, phía các nguyên đơn còn yêu cầu bà Đ là chủ sở hữu xe phải có trách nhiệm liên đới bồi thường. Tại Khoản 2 - Điều 623 của Bộ luật dân sự năm 2005 và điểm b mục 2 phần III Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường”, “ Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra……”. Như vậy, trong trường hợp này, bà Thu Đ khi giao cho anh T điều khiển, anh T có giấy phép lái xe và không sử dụng bia rượu nên bà Thu Đ giao xe cho anh T điều khiển là hợp pháp, đúng quy định của pháp luật. Mặc khác, anh T là con bà nhưng anh T đã trưởng thành. Trong vụ tai nạn trên, anh T là người được xác định không có lỗi. Vì vậy, các nguyên đơn phải tự gánh chịu thiệt hại do ông C gây ra. Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định tại Khoản 1 – Điều 9 ; Khoản 1 - Điều 604; 606; 621; 623 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Thu Đ, không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại tính mạng của các nguyên đơn bà A, chị N, anh Ng, chị C và bà Đ, ông H, bà D.

Đối với số tiền 40.000.000 đồng, phía bà Thu Đ xác định đã hỗ trợ cho hai gia đình ông M, ông C mỗi bên 20.000.000 đồng làm chi phí mai táng phí. Phía các nguyên đơn cũng xác định đã nhận số tiền trên. Tại phiên tòa bà Thu Đ giữ nguyên ý kiến tự nguyện hỗ trợ số tiền trên cho hai gia đình, không yêu cầu hoàn trả lại nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện trên của bà.

Về án phí : Áp dụng khoản 01 – Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm d - Khoản 1 – Điều 12; Khoản 1 – Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí; yêu cầu của các nguyên đơn về bồi thường thiệt hại tính mạng thuộc trường hợp được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm nên các nguyên đơn bà A, chị N, chị C, anh N và bà Đ, ông H, bà D không phải nộp án phí dân sư sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 6 – Điều 26; Khoản 1 – Điều 36; điểm d – Khoản 1 – Điều 40; Khoản 1 - Điều 147; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm d – Khoản 1 – Điều 12; Khoản 1 – Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ vào Khoản 01 – Điều 9; Khoản 01 - Điều 604; Khoản 1- Điều 606; Khoản 1 – Điều 614; Điều 623 của Bộ Dân sự năm 2005 và Phần III Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại tính mạng của các nguyên đơn bà Nguyễn Thị A là người đại diện quyền và lợi ích hợp pháp của anh Võ Ngọc H, chị Võ Như N, anh Võ Như Ng, chị Võ Thị C và bà Bùi Thị Đ là người đại diện quyền và lợi ích hợp pháp của Võ Bùi Anh T và Võ Bùi Anh N, ông Võ Văn H, bà Trần Thị D.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Danh Thị Thu Đ về việc hỗ trợ số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đông) làm chi phí mai táng cho ông M và ông C. Và đã thực hiện giao nhận với nhau xong

2.Về án phí: Miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định .

Báo cho các bên đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 09/10/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1099
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2018/DS-ST ngày 09/10/2018 về tranh chấp bồi thường thiệt hại tính mạng

Số hiệu:42/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Vụ tai nạn giao thông xảy ra vào lúc 19 giờ 20 phút ngày 12/9/2016, tại xã T, huyện Giồng Riềng giữa xe honda BS 68 T6 – 5119 do ông Võ Văn C điều khiển chở sau là Võ Văn M và xe ô tô 7 chỗ BS 68A 015.96 do tài xế anh Lê Quốc T điều khiển. Hậu quả vụ tai nạn trên khiến cho ông C và ông M bị xe ô tô 7 chỗ cán chết.

Nguyên nhân vụ tai nạn giao thông đã xác định ông Võ Văn C là người điều khiển xe có nồng độ cồn trong máu vượt mức cho phép 139,98 mg/100ml máu, phía sau chở ông M, ông C không làm chủ tay lái, loạng choạng trượt ngã sang lề trái gây tai nạn. Anh T chạy không vượt quá tốc độ cho phép, không sử dụng rượu bia khi điều khiển.

Các đồng nguyên đơn là gia đình của ông Võ Văn M và Võ Văn C khởi kiện yêu cầu anh Lê Quốc T và bà Danh Thị Thu Đ là chủ phương tiện cùng liên đới BTTH tính mạng cho chồng, cha và con của các đồng nguyên đơn.

Hội đồng xét xử cho rằng anh T không có lỗi dẫn đến thiệt hại mà lỗi là do phía ông C người điều khiển xe Honda, nên căn cứ vào quy định tại Khoản 1 – Điều 9; Khoản 1 - Điều 604; 606; 621; 623 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP không chấp nhận yêu cầu BTTH tính mạng của các nguyên đơn.