TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 413/2018/HSPT NGÀY 28/12/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 28 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 404/2018/TLPT-HS ngày04 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo K Niê do có kháng cáo của bị cáo, kháng nghị của VKSND thị xã Buôn Hồ và kháng cáo của người bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số 37/2018/HS-ST, ngày 17/10/2018 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
K NIÊ (tên gọi khác: K1 Niê); sinh năm 1996, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Buôn W, xã CB, thị xã BH, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Ê Đê Con ông: Y1 Ayun, sinh năm 1964 và bà H’Ng, sinh năm 1964, bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Anh LW Niê; trú tại: Buôn W, xã CB, thị xã BH, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị H’ N Niê; trú tại: Buôn W, xã CB, thị xã BH, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
- Người phiên dịch: Ông Y Th Bkrông; trú tại: Buôn X, xã X1, Tp.B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 18 giờ ngày 07/4/2018, K Niê (tên gọi khác: K1 Niê) đến nhà anh LN Kdăm ở cùng buôn (buôn W, xã CB, thị xã BH, tỉnh Đắk Lắk) để uống rượu mừng ngày hôm sau cưới vợ cho anh L1 Niê. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, có C Kbuôr và LW Niê ở cùng buôn cũng đến tham dự. Đến 21 giờ 30 bị cáo ra về, khi đến cổng rạp cưới thì C gọi “K1 qua đây nói chuyện”, bị cáo liền đi qua chỗ C và nói “kêu làm gì, đứng đây làm gì” và sau đó hai người xảy ra cự cãi, bị cáo dùng tay tát vào mặt C một cái, rồi đẩy C xuống mương. Lúc này anh LW Niê đứng gần đó hỏi “sao đánh anh em” thì bị cáo trả lời “nói mấy lần không nghe thì đánh chứ”. Nghe vậy, LW Niê rút trong cốp xe mô tô của mình một cây kiếm tự chế, lưỡi kiếm bằng kim loại rộng 03cm, cán bằng sắt tròn quấn băng keo màu đen dài 26.5 cm, đường kính 2.5cm cầm trên tay chạy lại chém hướng từ trên xuống dưới về người bị cáo, mũi kiếm sượt vào vùng thái dương bị cáo làm rách da. Bị cáo liền chạy về nhà lấy một cái cuốc cán bằng tre dài 1.17m, đường kính 03cm, lưỡi cuốc làm bằng kim loại kích thước 22cm X 20cm chạy ra để đánh lại thì gặp anh D Niê, bị cáo dùng cuốc đánh anh D thì D bỏ chạy. Thấy vậy LW liền cầm kiếm chạy vào để đánh bị cáo thì bị bị cáo cầm cuốc dơ lên đnáh lại trúng vào đầu LW, anh LW lùi lại, đụng trúng chiếc xe mô tô phía sau nên ngã xuống đất, bị cáo tiếp tục dùng cuốc đánh lần thứ hai từ trên xuống trúng đùi phải của anh LW. Vụ việc sau đó được can ngăn, bị cáo được mẹ và chị gái đưa về nhà còn anh LW được đưa đi bệnh viện đa khoa TH, thành phố B điều trị thương tích.
Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 731/PY-TgT ngày 19/6/2018 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Đăk Lăk kết luận: Anh LW Niê bị đa thương, mẻ bản sọ ngoài, vật tác động cứng, có cạnh sắc. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại 15 %, tạm thời 12 tháng.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 cây kiếm tự chế, lưỡi kiếm bằng kim loại rộng 03cm, cán bằng sắt tròn quấn băng keo màu đen dài 26.5 cm, đường kính 2.5cm; 01 cái cuốc cán bằng tre dài 1.17m, đường kính 03cm, lưỡi cuốc làm bằng kim loại kích thước 22cm X 20cm.
Bản cáo trạng số 34/CT-VKSBH, ngày 01 tháng 10 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ đã truy tố bị cáo K Niê về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 37/2018/HSST ngày 17/10/2018 Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo K Niê (tên gọi khác: K1 Niê) phạm tội “Cốý gây thương tích”.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo K Niê (tên gọi khác: K1 Niê) 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của bị cáo và các đương sự.
Ngày 26/10/2018, VKSND thị xã Buôn Hồ kháng nghị đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm: Không áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS và tăng mức hình phạt tù đối với bị cáo;
Ngày 29/10/2018, người bị hại LW Niê kháng cáo tăng mức hình phạt đối với bị cáo do bị cáo không bồi thường cho bị hại.
Ngày 30/10/2018, bị cáo K Niê kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt;
Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu. Người bị hại LW Niê giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo. Đại diện VKS giữ nguyên kháng nghị.
Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKSBH, ngày 26/10/2018 của VKSND thị xã Buôn Hồ, và đơn kháng cáo của người bị hại đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo HĐXX thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải nên cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS cho bị cáo được hưởng mức án dưới mức của khung hình phạt là không phù hợp. Bởi lẽ, trong vụ án này bị cáo không thể hiện “ăn năn hối cải” về hành vi phạm tội của mình chưa bồi thường cho người bị hại, không thăm hỏi người bị hại. Do vậy mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo K Niê là chưa đúng, chưa tương xứng với tính chất mức độ hành vi của bị cáo gây ra.
Vì vậy kháng nghị của VKSND thị xã Buôn Hồ, và đơn kháng cáo của người bị hại đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm không áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS và tăng mức hình phạt tù đối với bị cáo, là có căn cứ để chấp nhận; đồng thời không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Tại phiên tòa bị cáo không bào chữa, tranh luận gì thêm chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 21 giờ 30 ngày 07/4/2018, do bực tức việc LW Niê dùng kiếm chém mình nên bị cáo đã dùng cuốc đánh trúng vào đầu và đùi phải của LW Niê hậu quả anh LW bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể 15%, tạm thời 12 tháng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2]. Xét Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKSBH, ngày 26/10/2018 của VKSND thị xã Buôn Hồ, và đơn kháng cáo của người bị hại đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo HĐXX thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải nên cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS cho bị cáo được hưởng mức án dưới mức của khung hình phạt là chưa đúng pháp luật. Bởi lẽ, trong vụ án này bị cáo không thể hiện “ăn năn hối cải” về hành vi phạm tội của mình chưa bồi thường cho người bị hại, không thăm hỏi người bị hại . Do vậy mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo K Niê là chưa đúng pháp luật, chưa tương xứng với tính chất mức độ hành vi của bị cáo gây ra.
Vì vậy kháng nghị của VKSND thị xã Buôn Hồ, và đơn kháng cáo của người bị hại đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm không áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS và tăng mức hình phạt tù đối với bị cáo, là có căn cứ để chấp nhận. rằng:
[3]. Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo HĐXX thấy
Bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức đượcsức khỏe của người khác là vốn quý được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm hại sức khỏe trái pháp luật đều bị xử lý nghiêm minh. Mặc dù, nhận thức được điều đó nhưng với ý thức coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe của người khác mà bị cáo đã dùng cuốc là hung khí nguy hiểm đánh vào đầu và đùi của anh LW hậu quả gây thương tích cho anh LW với tổng thương tích là 15%.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Xét mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo K Niê là nhẹ, chưa tương xứng với tính chất mức độ hành vi của bị cáo gây ra, chưa đúng pháp luật. Vì vậy, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo K Niê .
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo K Niê phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, nhưng do bị cáo thuộc hộ nghèo nên HĐXX miễn án phí HSPT cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Căn cứ điêm a, b khoan 1 Điêu 355, điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng nghị của VKSND thị xã Buôn Hồ và đơn kháng cáo của người bị hại LW Niê; Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo K Niê;
Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 37/2018/HS-ST, ngày 17/10/2018 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
[2]. Điều luật áp dụng và mức hình phạt:
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo K Niê (tên gọi khác: K1 Niê) 02 (Hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.
[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm:
Miễn án phí hình sự phúc thẩm cho bị cáo.
[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 413/2018/HSPT ngày 28/12/2018 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 413/2018/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/12/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về