Bản án 41/2021/HS-ST ngày 24/06/2021 về tội bắt, giữ người trái pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 41/2021/HS-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT

Ngày 24 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2021/HSST-QĐ ngày 08 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên bị cáo: Lê Văn H1 (Tên gọi khác: D), sinh năm 1987 tại B. Hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã C, huyện V, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đình C và bà Lâm Thị C; vợ tên Mai Thị Thu T; có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2015; tiền án: Không, tiền sự: Không, nhân thân: Không. Bị cáo bị bắt ngày 12/3/2021 theo quyết định truy nã, sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Văn M, sinh năm 1976 - Luật sư Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên C thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Dương; có mặt.

Bị hại:

1. Ông Trần Quốc Đ1, sinh năm 1998. Địa chỉ: Ấp 4, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Ông Đặng Vũ Huy H2, sinh năm 1990. Địa chỉ: Ấp 4, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

3. Ông Hoàng Trung T1, sinh năm 1989. Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Trần Trung C1, sinh năm 1996. Địa chỉ: Ấp 4, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

2. Ông Trần Minh P (D), sinh năm 1990. Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

3. Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1982. Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

4. Ông Đặng Quang D1, sinh năm 1991. Địa chỉ: Số 11, P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

5. Ông Võ Văn C2, sinh năm 1960. Địa chỉ: K 5, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

6. Ông Nguyễn Hoàng L, sinh năm 1990. Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

7. Ông Dương Quang C3, sinh năm 1985. Địa chỉ: TC 101, H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; vắng mặt.

8. Ông Nguyễn Hùng S, sinh năm 1973. Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

9. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1976. Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

10. Lê Quang T2, sinh ngày 10/4/2005. Người đại diện hợp pháp của Lê Quang T: Bà Nguyễn Thị H và ông Lê Văn T (Là cha, mẹ ruột). Cùng địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

11. Bà Nguyễn Thu D2, sinh năm 1989. Địa chỉ: Thôn 12, xã A, huyện L, tỉnh Bắc Giang; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

12. Trần Cao Minh Đ2, sinh ngày 11/10/2006.

13. Trần Cao T3 (M), sinh ngày 15/10/2002.

Người đại diện hợp pháp của Trần Cao T3 và Trần Cao Minh Đ2: Ông Trần Cao T4 và bà Lê Thị T5 (Là cha, mẹ ruột). Cùng địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

14. Ông Lê Văn T6, sinh năm 1977. Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

15. Ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1995. Địa chỉ: Thôn Q, xã X, huyện L, tỉnh Bắc Giang; vắng mặt.

16. Ông Hà Văn T7, sinh năm 1987. Địa chỉ: Thôn 12, xã A, huyện L, tỉnh Bắc Giang; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn H3, Hà Văn T7 và Lê Văn H1 là tài xế chạy xe ôtô tải chở hàng cho ông Lê Văn T6 và bà Nguyễn Thị H2.

Trần Trung C1, Trần Quốc Đ1, Đặng Vũ Huy H2, Trần Cao Minh Đ2, Hoàng Trung T1 và Trần Minh P là bạn bè quen biết ngoài xã hội với nhau.

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 06/8/2019, Trần Trung C1 điều khiển xe đạp điện chở Trần Cao Minh Đ2 t ấp C, xã H về nhà tại xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương. Khi đến đoạn đường ĐT 746 thuộc ấp C, xã H gặp Nguyễn Văn H3 đang hướng dẫn xe ôtô tải biển số 47C-209.77 quay đầu thì xảy ra mâu thuẫn với Nguyễn Văn H3, H3 đòi đánh C1 nên C1 chở Đ2 về nhà tại xã L và gọi cho Đặng Vũ Huy H2, Trần Quốc Đ1, Hoàng Trung T1, Trần Minh P đến tìm H3 để giải quyết mâu thuẫn. C1, H2, Đ1, T1 và P gặp H3. C1 đứng ra nói chuyện với H3 liền bị H3 dùng nón cối đánh vào đầu. Thấy vậy, H2, Đ1, T1, P chạy đến chỗ C1 và H3 thì H3 bỏ chạy vào vườn cam trốn. Bà Nguyễn Thị H2 đi đến nhìn thấy H3 bị nhóm C1 đuổi đánh nên la lên: “Cái gì đấy”, H3 trả lời: “Mấy thằng này nó chặn xe nó đánh cháu” nên bà H2 truy hô: “Cướp..cướp” thì P, C1 cự cãi với bà H2, bà H2 gọi điện cho Lê Văn T6 kể lại sự việc. H3 bỏ chạy nên C1, H2, T1, Đ1 và P chạy về quán N thuộc ấp C, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương để ăn uống.

Sau khi bỏ chạy thoát, H3 gọi điện thoại cho T6 báo việc bị nhóm C1 chặn đánh, đòi đốt xe. T6 điều khiển xe ôtô biển số 51C-830.52 chở theo Hà Văn T7, Lê Văn H1 và người tên D (D Hà Nội) đến chỗ xe ôtô tải biển số 47C-209.77 thì gặp H3 đang đứng chờ trên đường. H3 nói nhóm đánh H3 đang ở quán ăn N. T6 kêu H3 lên xe để đến quán N, Lê Văn H1 nhặt 01 đoạn cây tầm vông ở bìa đường, Hà Văn T7 lấy 01 cây tuýt sắt dài khoảng 50cm t xe ôtô tải biển số 47C-209.77 lên xe do T6 điều khiển chở đến quán ăn N. T6 để xe ôtô ở lề đường trước cổng quán, H3 nhìn thấy nhóm C1 đang ngồi trong quán liền hô to: “Bắt lấy chúng nó”, T7 cầm tuýp sắt, H1 cầm cây tầm vông rồi cả nhóm cùng chạy vào quán. C1, H2, T1, Đ1, P, Trần Cao Minh T3 và P, T (Chưa rõ nhân thân, lai lịch) đang ngồi trong quán, nghe tiếng d ng xe của nhóm T6 bên ngoài đường và nghe tiếng hô hào của nhóm T6 thì T1, P khom người xuống nhìn ra thấy nhóm T6 cầm hung khí chạy vào nên nhóm C1 bỏ chạy. C1, P, T, T3, P chạy thoát. Đ1, T1, H2 chạy ra phía sau quán ngay cạnh góc hàng rào kẽm gai thì bị nhóm T6 đuổi theo phát hiện. Nguyễn Văn H3 nhặt được 01 con dao bào bằng inox ở sàn nước bên hông quán rồi cùng chạy theo ra sau quán. Nhóm T6 lớn tiếng kêu Đ1, T1, H2 bước ra chỗ nhóm T6 đứng. Đ1, T1, H2 nhìn thấy H3, T6, T7, H1 cầm hung khí nên bước ra chỗ nhóm T6. T6 dùng tay đánh 02 cái vào mặt Đ1, T7 dùng tay nắm phía sau cổ áo và đánh H2, T6 dùng tay đánh, nắm cổ áo giữ T1. T6 kêu H1, T7, H3 đưa T1, H2, Đ1 lên thùng xe ôtô tải để T6 chở về bãi xe. H1, T7, H3 cùng với T6 đe doạ, khống chế đưa Đ1, H2, T1 lên thùng xe tải 51C-830.52, T1 định bỏ chạy thì bị H3 dùng dao khống chế đưa lên thùng xe. Lê Quang T2 không tham gia bắt giữ mà chỉ đứng xem rồi lên thùng xe ôtô tải về cùng. T7, H3 ngồi ở phía sau thùng xe giữ Đ1, T1, H2 còn T6 điều khiển xe cùng với H1 ngồi trước ca bin chạy về chỗ bãi đậu xe của T6 ở đầu đường H 16 thuộc ấp C, xã H, B. T6 gọi báo Công an huyện Bắc Tân Uyên sự việc đã bắt giữ nhóm người chặn đánh đòi đốt xe của T6. Trên thùng xe, H3 và T7 tiếp tục dùng chân đá vào người của Đ1, T1, H2. Khi về đến bãi xe T6 đậu xe, mở cửa hông thùng xe yêu cầu Đ1, T1, H2 bước xuống xe và đi vào nhà mát bên hông nhà của T6 ngồi. T6 tiếp tục dùng tay đánh vào đầu, bóp vào cổ Đ1. Nhận được tin báo, Công an xã H yêu cầu những người liên quan về trụ sở để làm việc, xác lập hồ sơ ban đầu chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên.

Tại Công an xã H, Lê Văn H1 khai tên là Lê Văn D, sinh năm 1977, hộ khẩu thường trú tại phường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định nhằm trốn tránh tội phạm rồi bỏ trốn.

Ngày 16/6/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt tạm giam đối với Lê Văn H1 về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo điểm đ khoản 2 Điều 157 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do Lê Văn H1 đã bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã ra quyết định truy nã đối với H1.

Ngày 12/3/2021, Công an huyện V, tỉnh Bình Định đã bắt được Lê Văn H1 và giao cho Công an huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để xử lý theo quy định Hành vi của Lê Văn T6, Nguyễn Văn H3, Hà Văn T7 đã được giải quyết tại Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2020/HS-ST ngày 15/10/2020 của Tòa án nhân dân Bắc Tân Uyên.

Tại Bản Cáo trạng số 34/CT-VKS-BTU ngày 10 tháng 5 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên quyết định truy tố bị cáo Lê Văn H1 về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo điểm đ khoản 2 Điều 157 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm p khoản 1 Điều 52, Điều 58, điểm đ khoản 2 Điều 157 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Văn H1 t 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp đã được giải quyết tại Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2020/HS-ST ngày 15/10/2020 của Tòa án nhân dân Bắc Tân Uyên nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn H1 trình bày: Bản Cáo trạng số 34/CT-VKS-BTU ngày 10 tháng 5 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên quyết định truy tố bị cáo Lê Văn H1 về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo điểm đ khoản 2 Điều 157 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tuy nhiên, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết bị cáo có hành đồng xảo quyệt nhằm trốn tránh tội phạm quy định tại điểm p khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là chưa phù hợp. Hình phạt đề nghị với bị cáo là quá nghiêm khắc, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, là lao động chính trong gia đình và có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Bị cáo thống nhất với nội dung bản cáo trạng truy tố, không tranh luận và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt.

[3] Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa xác định:

Ngày 06/8/2019, tại xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương, bị cáo Lê Văn H1 và đồng phạm đã có hành vi bắt, giữ người trái pháp luật đối với ông Trần Quốc Đ1, ông Đặng Vũ Huy H2, ông Hoàng Trung T1. Do đó, Cáo trạng số 34/CT-VKS-BTU ngày 10 tháng 5 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố bị cáo Lê Văn H1 về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo điểm đ khoản 2 Điều 157 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo là những người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi dùng vũ lực khống chế, bắt giữ bị hại là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cá nhân của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi bắt giữ người của bị cáo khi chưa được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là vi phạm pháp luật, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức hình phạt nghiêm bằng hình phạt tù có thời hạn mới đủ tác dụng tr ng trị, răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ng a chung trong xã hội.

[5] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau:

[6] Vai trò của bị cáo: Vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo là người thực hành nhưng có vai trò thấp hơn so với Lê Văn T6, Hà Văn T7 và Nguyễn Văn H3.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có hành động xảo quyệt nhằm trốn tránh tội phạm là tình tiết quy định tại điểm p khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[9] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo đang bị tạm giam, không có chức vụ nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[10] Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp đã được giải quyết xong tại Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2020/HS-ST ngày 15/10/2020 của Tòa án nhân dân Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[11] Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng điểm p khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là chưa phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[12] Xét đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt đối với bị cáo, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm p khoản 1 Điều 52; Điều 58 và điểm đ khoản 2 Điều 157 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn H1 (Tên gọi khác: D) phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn H1 (Tên gọi khác: D) 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/3/2021.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Buộc bị cáo Lê Văn H1 (D) phải nộp số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

3. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2021/HS-ST ngày 24/06/2021 về tội bắt, giữ người trái pháp luật

Số hiệu:41/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về