Bản án 41/2021/HS-ST ngày 10/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 41/2021/HS-ST NGÀY 10/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2021/HSST, ngày 09/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Quang T (tên gọi khác: Không) – sinh ngày 26/8/1970 tại thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Nơi cư trú: thôn Công Trường 5, xã Cam Đường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Nha và bà Vũ Thị Chử; Bị cáo có vợ là Trần Thị Hoa và chưa có con; tiền án: Không; tiền sự: Không. Về nhân thân:

Tại Bản án số 07/HSST ngày 28/5/1991 của Tòa án nhân dân thị xã Lào Cai xét xử về tội “Trộm cắp tài sản công dân” xử phạt 09 tháng tù; Bản án số 16/HSST ngày 16/6/1997 của Tòa án nhân dân thị xã Cam Đường xét xử về tội “Trộm cắp tài sản công dân và Tàng trữ trái phép chất ma túy” xử phạt 05 năm tù; Bản án số 10/HSST ngày 20/01/2003 của Tòa án nhân dân thị xã Lào Cai xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” xử phạt 36 tháng tù;

Bản án số 59/HSST ngày 05/5/2008 của Tóa án nhân dân thành phố Lào Cai xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” xử phạt 07 năm tù. Bị cáo đã chấp hành xong các bản án trên và được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ ngày từ 22/12/2020, bị bắt tạm giam từ ngày 31/12/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 15 giờ 45 phút ngày 22/12/2020, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai làm nhiệm vụ tại khu vực đường Ngô Văn Sở, thuộc tổ 16, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai phát hiện Nguyễn Quang T đang dừng đỗ xe mô tô biển kiểm soát 24B1 - 160.01 ở ven đường có biểu hiện nghi vấn về phạm tội ma túy nên đã kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, phát hiện và thu giữ tại vị trí gác để chân bên phải xe mô tô 01 túi nilon màu trắng, có mép miết màu xanh, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng; tại vị trí bình ắc quy trong cốp xe mô tô 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa 04 gói nilon màu trắng, có mép miết màu xanh bên trong đều chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng và 01 túi nilon màu trắng, có mép miết màu đỏ chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng. Nguyễn Quang T khai nhận các hạt tinh thể rắn, màu trắng chứa trong các túi nilon bị thu giữ đều là ma túy “Đá”, cất giấu để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra, còn tạm giữ của Nguyễn Quang T: 01 xe mô tô biển kiểm soát 24B1 - 160.01; 01 điện thoại nhãn hiệu VIVO, màu xanh đen; 01 ví màu nâu; 890.000 đồng; 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Quang T.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định hồi 09 giờ ngày 25/12/2020, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai và Nguyễn Quang T niêm phong còn nguyên vẹn, đúng quy định, xác định:

Mẫu M1: 01 túi nilon màu trắng có mép miết màu xanh, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng. Tổng khối lượng các hạt tinh thể rắn, màu trắng là 0,87 gam. Cơ quan giám định tiến hành trích mẫu 0,18 gam để tiến hành giám định. Còn lại 0,69 gam tái niêm phong, hoàn trả lại cơ quan trưng cầu.

Mẫu M2: 04 túi nilon màu trắng loại có mép miết màu xanh, bên trong đều chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng; 01 túi nilon màu trắng, loại có mép miết màu đỏ, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng. Tổng khối lượng các hạt tinh thể rắn, màu trắng trong 05 túi nilon loại mép miết này là 7,53 gam. Cơ quan giám định tiến hành trích mẫu 0,19 gam để tiến hành giám định. Còn lại 7,34 gam tái niêm phong, hoàn trả lại cơ quan trưng cầu.

Tại kết luận giám định về ma túy số 18/GĐMT ngày 26/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận:

Mẫu M1: 0,87gam các hạt tinh thể rắn màu trắng là chất ma túy Methamphetamine;

Mẫu M2: 7,53 gam các hạt tinh thể rắn màu trắng, màu ma túy Methamphetamine.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Quang T khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 22/12/2020, Nguyễn Quang T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 24B1 - 160.01 đi từ nhà tại thôn Công Trường 5, xã Cam Đường, thành phố Lào Cai đến khu vực Cầu Cốc Lếu thuộc tổ 17, phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai mua của một người nam giới tên Cường (không biết họ, địa chỉ) 4.000.0000 đồng ma túy Methamphetamine được đựng 05 túi nilon màu trắng, có mép miết màu xanh và 01 túi nilon màu trắng, có mép miết màu đỏ. Sau khi mua được ma túy Nguyễn Quang T cất giấu 01 túi ma túy có mép miết màu xanh vào gác để chân bên phải xe mô tô, 04 túi ma túy có mép miết màu xanh và 01 túi ma túy có mép miết màu đỏ Nguyễn Quang T cất vào vị trí bình ắc quy trong cốp xe mô tô rồi điều khiển xe đi về nhà. Khi Nguyễn Quang T điều khiển xe đi đến khu vực đường Ngô Văn Sở thuộc tổ 16, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai thì bị tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai phát hiện và bắt quả tang.

Bản Cáo trạng số 37/CT-VKS ngày 08/4/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai đã truy tố bị cáo Nguyễn Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ ma túy của mình như kết luận điều tra của cơ quan điều tra và bản cáo trạng viện kiểm sát đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù; Phạt bổ sung bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng sung ngân sách nhà nước; Tuyên án phí, xử lý vật chứng, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Sau khi kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, cơ quan truy tố điều tra viên; kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về xác định tội phạm và áp dụng pháp luật:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Ngày 22/12/2020, Nguyễn Quang T điều đã có hành vi mua ma túy của một người không quen biết với giá mua 4.000.0000 đồng, số ma túy được đựng 05 túi nilon màu trắng, có mép miết màu xanh và 01 túi nilon màu trắng, có mép miết màu đỏ với mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo cất giấu 01 túi ma túy có mép miết màu xanh vào gác để chân bên phải xe mô tô, 04 túi ma túy có mép miết màu xanh và 01 túi ma túy có mép miết màu đỏ bị cáo cất vào vị trí bình ắc quy trong cốp xe mô tô. Hành vị của bị cáo đã bị tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai phát hiện và bắt quả tang. Tại kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: Tổng khối lượng có trong 06 gói nilon mẫu gửi giám định là: 8,40 gam, là loại chất ma túy Methamphetamine. Sau khi nhận kết luận giám định bị cáo nhất trí và không có ý kiến gì.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định cũng như các lời khai khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khỏe, hiểu biết pháp luật. Mặc dù biết rõ về tác hại của ma túy và chế độ độc quyền, thống nhất quản lý chất ma túy của Nhà nước nhưng do bản thân nghiện ma túy nên bị cáo đã thực hiện hành vi cất giấu 8,40 gam ma túy Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Như vậy, Tòa án có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cá đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở, đúng pháp luật.

[2.2]. Về tính chất mức độ hành vi, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, không những ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của chính bản thân bị cáo mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm gia tăng các loại tội phạm về ma túy đang diễn ra hết sức phức tạp hiện nay; Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân chưa tốt là đối tượng nghiện ma túy, đã 04 lần bị Tòa án xét xử, bị cáo đã chấp hành xong bản án và được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học mà còn phạm tội vì vậy Tòa xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung; Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không; Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai nhận tội, bị cáo có có bố đẻ và mẹ đẻ được trao tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự được áp dụng khi lượng hình đối với bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử phạt bổ sung số tiền 5.000.000đ đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2.4] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 8,03 gam ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định;

- Trả lại cho bị cáo: 01 ví da; 01 Chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Quang T;

- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án số tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 890.000 đồng; 01 điện thoại VIVO.

[2.5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 22/12/2020. Phạt bị cáo bổ sung số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) sung ngân sách Nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu để tiêu hủy: 8,03 gam ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong đúng quy định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Tại các mép dán của bì niêm phong mới này có chữ ký ghi rõ họ tên của Trần Phi Long, Đặng Minh Đổng, Nguyễn Quang T, hình dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai và được dán phủ bằng lớp băng dính trong suốt. Trên một mặt của bì niêm phong có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Quang T ngày 22/12/2020 tại Tổ 16, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai”.

- Trả lại cho bị cáo: 01 ví giả da mầu nâu; 01 giấy chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Quang T;

- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án: Số tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 890.000 đồng; 01 điện thoại Vivo, màu xanh đen, số IMEI 864287042637114;

(Các vật chứng trên thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/4/2021 giữa Công an thành phố Lào Cai và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lào Cai).

3. Về án phí, quyền kháng cáo Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2021/HS-ST ngày 10/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:41/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về