TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B – TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 41/2021/HN-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ YÊU CẦU LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 651/2020/TLST-HNGĐ ngày 21/12/2020 về việc “Yêu cầu ly hôn, nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 22/2021/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1990 (xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp A1, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1989 (vắng mặt).
Địa chỉ: ấp A1, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/12/2020, đơn yêu cầu xét xử vắng mặt đề ngày 21/4/2021, chị Nguyễn Thị Thanh L trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn T cưới nhau năm 2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A (huyện B, tỉnh Bến Tre) vào ngày 26/6/2014, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng chị thường xuyên cãi nhau làm cho mâu thuẫn ngày càng thêm trầm trọng nên vợ chồng chị đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Từ ngày ly thân đến nay, vợ chồng chị vẫn không giải quyết được mâu thuẫn, đời sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Nay chị không còn tình cảm với anh T và nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn T.
Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung tên là Nguyễn Lan P, sinh ngày 10/02/2015 hiện đang sống với chị. Nay ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu P và tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung: Không có.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:
- Về thủ tục tố tụng: Xét thấy trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, Thẩm phán đã tuân thủ và tiến hành đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự. Thành viên Hội đồng xét xử thể hiện sự vô tư, khách quan, độc lập khi xét xử. Nguyên đơn chấp hành nghiêm túc quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, vụ án đưa ra xét xử đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử: Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Thanh L đối với anh Nguyễn Văn T. Về con chung: Để cháu Nguyễn Lan P, sinh ngày 10/02/2015 cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung: không có nên đề nghị không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra công khai các chứng cứ tại phiên tòa, qua kết quả tranh luận, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa sơ thẩm, chị Nguyễn Thị Thanh L có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, căn cứ vào các 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị L, anh T. [2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Thanh L và anh Nguyễn Văn T là hợp pháp. Sau khi kết hôn, chị L và anh T sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống. Khi xảy ra mâu thuẫn, chị L và anh T đã ngồi lại để giải quyết mâu thuẫn nhiều lần nhưng vẫn không kết quả nên anh chị đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Trong thời gian sống ly thân, anh chị cũng không thể giải quyết được mâu thuẫn mà làm cho mâu thuẫn của vợ chồng ngày thêm trầm trọng. Mặt khác, trong suốt quá trình tố tụng và tại đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, chị L vẫn xác định tình cảm vợ chồng không còn với anh T và vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn. Anh T biết việc chị L xin ly hôn với anh nhưng anh vẫn không đến Tòa án để thể hiện ý kiến xin hàn gắn. Qua đó, xét thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh T là trầm trọng, không có khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của chị L với anh T là có căn cứ phù hợp với quy định tại các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về con chung: Cháu Nguyễn Lan P, sinh ngày 10/02/2015; Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị L và anh T sống ly thân thì cháu P vẫn do chị L nuôi dưỡng. Mặt khác, từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến xét xử anh T cũng không thể hiện ý kiến yêu cầu nuôi cháu P. Trong khi đó, cháu P hiện do L trực tiếp nuôi dưỡng và chị L cũng yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu P nên Hội đồng xét xử xét thấy cần để cháu P cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 Luật hôn nhân gia đình. Chị L tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.
[4] Về tài sản chung: Không có. [5] Về nợ chung: Không có.
[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), chị Nguyễn Thị Thanh L có nghĩa vụ nộp theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thanh L đối với anh Nguyễn Văn T.
2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh L có quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Lan P, sinh ngày 10/02/2015. Ghi nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Anh Nguyễn Văn T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: Không có.
4. Về nợ chung: Không có.
5. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), chị Nguyễn Thị Thanh L có nghĩa vụ phải nộp nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0004369 ngày 15/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bến Tre. Án phí, chị L đã nộp xong.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Chị Nguyễn Thị Thanh L, anh Nguyễn Văn T vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.
Bản án 41/2021/HN-ST ngày 28/04/2021 về yêu cầu ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 41/2021/HN-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về