TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU,TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 41/2021/HNST NGÀY 23/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1033/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2020, về tranh chấp “Ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2021/QĐXX-ST ngày 22-3-2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 36/QĐHPT ngày 08-4-2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Đặng Thị T, sinh năm 1981 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Đường A, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Bị đơn: Anh Trương Văn C, sinh năm 1989 (vắng mặt) Địa chỉ: Đường Đ, Phường E, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn, bản tự khai nguyên đơn chị Đặng Thị T trình bày :
Về hôn nhân: Chị Đặng Thị T và anh Trương Văn C tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Q vào ngày 18-7-2017, hôn nhân đúng pháp luật, có tổ chức đám cưới. Trong thời gian chung sống, vợ chồng không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng hơn, hai người sống ly thân. Nay chị T xét thấy khả năng đoàn tụ là không thể, tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn với anh Trương Văn C.
Về con chung: Trong quá trình chung sống chị T và anh C có 01 con chung tên là Trương Gia H, sinh ngày 17-4-2018. Chị có nguyện vọng được nuôi cháu Gia H, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Đối với anh Trương Văn C: Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt và không có ý kiến gì.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình.Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử và thư ký tòa án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ, bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Chị Đặng Thị T, có đơn khởi kiện“ Ly hôn” với anh Trương Văn C, anh C có nơi cư trú tại thành phố Vũng Tàu nên xác định đây là vụ án hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ yêu cầu anh Trương Văn C đến Tòa để giải quyết vụ án, hòa giải, xét xử. Tuy nhiên, anh C vẫn vắng mặt. Tại phiên tòa, chị T vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt anh C, chị T.
[2].Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Đặng Thị T và anh Trương Văn C là hợp pháp đúng quy định pháp luật.
Quá trình chung sống, chị T và anh C phát sinh mâu thuẫn là có thật. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh C đến làm việc tạo điều kiện cho hai bên hòa giải để hàn gắn cuộc sống vợ chồng nhưng anh C vẫn cố tình vắng mặt. Điều này thể hiện anh C không có thiện chí hàn gắn tình cảm, không coi trọng cuộc sống vợ chồng, không thể hiện thiện chí đoàn tụ. Như vậy khả năng hàn gắn tình cảm giữa chị T và anh C là không thể thực hiện được, tình trạng mâu thuẫn đã có, mỗi người sống một nơi, mục đích hôn nhân giữa vợ chồng không đạt được, không còn hạnh phúc nên yêu cầu xin ly hôn của chị T với anh C là có cơ sở. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đặng Thị T đối với anh Trương Văn C.
[3].Về con chung: Chị Đặng Thị T và anh Trương Văn C có 01 con chung tên là Trương Gia H, sinh ngày 17-4-2018. Chị T có nguyện vọng được nuôi cháu Gia H, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.
Xét về điều kiện kinh tế thì chị T có điều kiện kinh tế để nuôi cháu Gia H. Từ năm 2018 cho đến nay, anh C và chị T sống ly thân, cháu Gia H ở với chị T, cháu phát triển bình thường. Để tiếp tục chăm lo việc học tập, giáo dục cho con chung phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, đồng thời hạn chế thấp nhất việc làm xáo trộn đến cuộc sống, tâm tư, tình cảm của cháu nên Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Trương Gia H, sinh ngày 17-4-2018 cho chị Đặng Thị T trực tiếp nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử không xem xét.
[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Đặng Thị T phải nộp theo quy định pháp luật.
Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu có căn cứ.
Từ những nhận định trên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị T.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, của Luật hôn nhân và gia đình ; Điêu 28, Điều 39, Điều 228 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị T.
1.Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị T được ly hôn với anh Trương Văn C.
2.Về con chung: Chị Đặng Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trương Gia H, sinh ngày 17-4-2018. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con.
Anh C có quyền thăm và chăm sóc con chung không ai được cản trở. Trên cơ sở lợi ích của con, trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình,Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3.Về tài sản chung: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
4.Về nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết giải quyết.
5.Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Đặng Thị T nộp 300.000đ (Ba trăm ngan đồng) án phí hôn nhân và gia đình, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0007231 ngày 13-11-2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu. Chị T đã nộp xong án phí hôn nhân.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (đối với các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.
Bản án 41/2021/HNST ngày 23/04/2021 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 41/2021/HNST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về