TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 41/2021/HN-ST NGÀY 21/05/2021 VỀ LY HÔN
Ngày 21 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 654/2020/TLST- HN ngày 18 tháng 12 năm 2020 về việc “xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16a/2021/QĐXXST-HN ngày 16 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: chị Phạm Thị Ngọc T, sinh năm 1982 Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Bị đơn: anh Trần Văn H, sinh năm: 1970 Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre.
(Tại phiên tòa chị T có mặt, anh H vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/12/2020, trong quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Phạm Thị Thu H trình bày:
Chị và anh H tự nguyện chung sống năm 2004 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre vào 2007. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc. Đầu năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H có quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài, chị và anh H đã sống ly thân nhau 7 năm. Chị không còn tình cảm với anh H, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H. Sau khi ly hôn chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho chị.
Về con chung: Sau khi ly hôn chị yêu cầu Tòa giải quyết giao con chung tên Trần Quốc S sinh ngày 14/8/2005 cho chị trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Trần Văn H trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo hòa giải theo đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh H đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến hay yêu cầu của anh H đồng thời cũng không thể tiến hành hòa giải được.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến: trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký đã tuân thủ theo quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng anh Trần Văn H không có mặt, dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ.Về nội dung vụ án: hiện mâu thuẫn giữa chị T và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu của chị T xin được ly hôn với anh H là có cơ sở, phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân gia đình. Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Ngọc T được ly hôn với anh Trần Văn H. Con chung: Giao Trần Quốc S sinh ngày 14/8/2005 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: không có, không yêu cầu, nên không xem xét.Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Chị Phạm Thị Ngọc T và anh Trần Văn H sống chung vào năm 2004, và có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre vào năm 2007 hôn nhân do tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Chị T yêu cầu giải quyết ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
[3] Chị T trình bày sau khi kết hôn chị và anh H thời gian đầu chung sống hạnh phúc. Nhưng năm 2012 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H có mối quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài, chị và anh H sống ly thân nhau 7 năm. Tại phiên tòa, chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh H không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo hòa giải nhiều lần cho bị đơn anh Trần Văn H để hòa giải với chị T, nhưng anh H vẫn vắng mặt không lý do nên Tòa án đã tiến hành lập biên bản không hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự và đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn anh Trần Văn H vẫn vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2. Do đó, căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Trần Văn H.
[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị T, Hội đồng xét xử nhận thấy: Thực tế chị T và anh H sống ly thân nhau từ năm 2012 cho đến nay. Đây là một khoảng thời gian dài để chị T và anh H có thể suy nghĩ và bàn bạc phương án hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh chị vẫn không làm được. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập các bên đương sự hợp lệ nhiều lần để tiến hành hòa giải nhằm mục đích hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh H vẫn không đến tham dự phiên hoà giải. Điều đó cho thấy, anh H không thể hiện thiện chí mong muốn vợ chồng đoàn tụ, tại phiên tòa chị T vẫn cương quyết xin ly hôn với anh H. Hội đồng xét xử xét thấy, tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị Ngọc T.
[5]Từ những nhận định trên đây, xét thấy lời đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre về việc chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T là có căn cứ phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.
[6]Về con chung: thời gian chung sống chị T và anh H có một con chung tên Trần Quốc S sinh ngày 14/8/2005. Chị T yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, dù tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh H vẫn cố tình vắng mặt, anh H không thể hiện thiện chí, mong muốn được nuôi con chung; bên cạnh đó cháu Trần Quốc S thể hiện mong muốn được sống chung với mẹ. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu được nuôi con chung của chị T là chính đáng và phù hợp theo quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Ghi nhận chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con cũng như không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho chị.
[7] Về tài sản chung: Chị T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, Tòa án không xem xét.
[8] Về nợ chung: chị T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, Tòa án không xem xét.
[9] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng chị T phải nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 và Điều 227, 228, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016;
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị Ngọc T đối với anh Trần Văn H Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Ngọc T được ly hôn với anh Trần Văn H
Về con chung: Sau khi ly hôn, chị Phạm Thị Ngọc T được trực tiếp nuôi con chung Trần Quốc S sinh ngày 14/8/2005. Ghi nhận chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.
Anh Trần Văn H được quyền đến thăm, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.
Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.
Ghi nhận chị Phạm Thị Ngọc T không yêu cầu anh Trần Văn H cấp dưỡng cho chị sau khi ly hôn.
Về tài sản chung: chị T khai không có, không yêu cầu Tòa giải quyết, nên Toà án không xem xét.
Về nợ chung: chị T khai không có, không yêu cầu Tòa giải quyết, nên Toà án không xem xét.
Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng chị T phải nộp nhưng được khấu trừ theo biên lai T tiền tạm ứng án phí số 0004755 ngày 08 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bến Tre.
“ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Bản án 41/2021/HN-ST ngày 21/05/2021 về ly hôn
Số hiệu: | 41/2021/HN-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về