TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B - QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 41/2017/HNGĐ-ST NGÀY 29/12/2017 VỀ KIỆN XIN LY HÔN
Ngày 29 tháng 12 năm 2017, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện B - tỉnh Quảng Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 246/2017/TLST-HNGĐ ngày 09/10/2017 về việc “Kiện xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2017/QĐXX - ST ngày 28/11/2017. Giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Lê Văn L, sinh năm: 1987. Có mặt. Bị đơn: Chị Hồ Thị L, sinh năm: 1990. Vắng mặt. Cùng trú tại: Thôn L, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 09/11/2017 (Bút lục “BL” 01) và trong quá trình tiến hành tố tụng (BL19), anh Lê Văn L trình bày: Anh và chị Hồ Thị L kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 10/10/2012 tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã Đại Trạch, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn: Do tính tình trái ngược nhau, thường bất đồng quan điểm sống và cho đến ngày 10/10/2013 chị L bỏ nhà đi từ đó cho đến nay. Tại Quyết định số: 12/2017/QĐVDS ngày 23/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Bình đã tuyên bố chị Hồ Thị L mất tích. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh L làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết xin ly hôn với chị Hồ Thị L.
Về con chung: Có 01 con chung là cháu Lê Hồ Tiến L, sinh ngày: 20/12/2012. Hiện cháu đang sống chung với anh L, anh L có nguyện vọng tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cháu trưởng thành.
Về tài sản và công nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tòa án nhân huyện B thụ lý vụ án và tiến hành triệu tập anh L, chị L trực tiếp đến Tòa án vào ngày 27/11/2017, anh L có mặt nhưng chị L vẫn vắng mặt không có lý do. Anh L cho biết từ ngày Tòa án ra quyết định tuyên bố chị L mất tích cho đến nay anh L vẫn không nhận được tin tức gì của chị L, chị L không liên lạc gì với gia đình, hiện tại anh L và hai gia đình nội ngoại không biết chị L làm gì, ở đâu.
Ngày 13/12/2017, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án, nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn tại phiên toà hôm nay, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về tố tụng: Anh Lê Văn L có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện B giải quyết vụ án xin ly hôn giữa anh và chị Hồ Thị L. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 2 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Bình. Tại phiên tòa hôm nay chị Hồ Thị L vắng mặt không có lý do mặc dù quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt và tiến hành niêm yết đúng theo quy định pháp luật các văn bản tố tụng. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Văn L và chị Hồ Thị L kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 10/10/2012 tại UBND xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình nên đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn và cho đến ngày 10/10/2013 chị L bỏ nhà ra đi, từ đó cho đến nay không có tin tức, địa chỉ gì. Tại Quyết định số: 12/2017/QĐVDS ngày 23/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Bình đã tuyên bố chị Hồ Thị L mất tích. Xét thấy tình cảm vợ chồng anh L, chị L không còn, cuộc sống chung không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình 2014 xử cho anh Lê Văn L được ly hôn chị Hồ Thị L là phù hợp.
[3] Về con chung: Có 01 con chung là cháu Lê Hồ Tiến L, sinh ngày: 20/12/2012. Sau khi ly hôn anh L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con vì kể từ ngày chị L bỏ đi cho đến nay cháu Lê Hồ Tiến L sống cùng với anh L nên nguyện vọng của anh L là chính đáng cần chấp nhận. Do đó áp dụng Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình giao anh L trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Hồ Tiến L cho đến lúc trưởng thành.
[4] Về tài sản và công nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[5] Về án phí: Áp dụng theo Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Anh Lê Văn L phải nộp 300.000đ án phí sơ thẩm ly hôn.
Vì các lẻ trên!
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 2 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 56, Điều 58 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Lê Văn L được ly hôn chị Hồ Thị L.
Về con chung: Giao anh Lê Văn Lực trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Hồ Tiến L, sinh ngày: 20/12/2012. Nếu sau này chị Hồ Thị L trở về có quyền đến thăm con và yêu cầu thay đổi việc nuôi con thì Tòa án sẽ giải quyết sau.
Về tài sản và công nợ chung: Không xem xét.
Về án phí vụ kiện: Anh Lê Văn L phải nộp 300.000đ án phí sơ thẩm ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B theo biên lai số 0002652 ngày 09/11/2017. Anh L đã nộp đủ án phí vụ kiện.
Án xử sơ thẩm nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (29/11/2017) để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm; Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án niêm yết tại trụ sở UBND xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình.
Bản án 41/2017/HNGĐ-ST ngày 29/12/2017 về kiện xin ly hôn
Số hiệu: | 41/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về