Bản án 41/2017/DSST ngày 01/09/2017 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 41/2017/DSST NGÀY 01/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Trong ngày 01 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 98/2017/TLST-DS, ngày 18/5/2017 về “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sảntheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2017/QĐXXST-DS, ngày 14/8/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 62/2017/QĐST-DS ngày 23/8/2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Chính xã hội Việt Nam;

Địa chỉ: số 68, Trường Chinh, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Ủy quyền cho: Ông Lê Văn T, Phó Giám đốc phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện V (có mặt).

- Bị đơn: Bà Phan Thị A, sinh năm: 1954; (vắng mặt) Địa chỉ: số 192, ấp A, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đại diện ủy quyền nguyên đơn trình bày: Ngày 02/11/2007 bà Phan Thị A có ký khế ước số 6000005100074067 với Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam - Phòng giao dịch huyện V vay số tiền là 24.600.000 đồng, vay ngày 02/11/2007, hạn trả 12/5/2016, lãi suất là 0,5%/tháng, mục đích vay cho con đi học. Đến ngày 12/7/2017 thì bá A có trả cho Ngân hàng vốn vay là 1.000.000đồng và lãi 244.000đồng. Do bà A vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân Hàng chính sách xã Hội Việt Nam khởi kiện. Nay Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam yêu cầu bà Phan Thị A có nghĩa vụ hoàn trả cho Ngân hàng số tiền vốn vay còn nợ là 23.600.000 đồng và lãi tính từ ngày 02/11/2007 đến ngày 01/9/2017 là 12.441.656đồng và yêu cầu tính lãi từ ngày 02/9/2017 đến khi bà A trả hết nợ cho Ngân hàng theo hợp đồng đã ký với Ngân hàng.

Trong bản trình bày ý kiến ngày 14/8/2017 bị đơn Phan Thị A trình bày:

Vào năm 2007 bà A có vay của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam số tiền24.600.000đồng, thời hạn vay là 10 năm, mục đích vay là để làm chi phí cho con bà A đi học, từ khi vay đến nay bà A chỉ trả vốn vay cho Ngân hàng được1.000.000đồng và đóng lãi được 01 lần với số tiền 244.000đồng. Nay bà A thừa nhận còn nợ và đồng ý trả cho Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam số tiền 23.600.000đồng và lãi theo yêu cầu của Ngân hàng. Nhưng hiện nay bà A chưa có khả năng trả nợ cho Ngân hàng khi nào có khả năng thì bà A mới trả.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về quan hệ pháp luật:

Ngày 02/11/2007 bà Phan Thị A có ký khế ước số 6000005100074067 để vay tổng cộng 24.600.000đồng của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, bà Phan Thị A cũng thừa nhận có ký khế ước để vay tiền như Ngân hàng trình bày nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là "Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản" theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

 [2] Về tố tụng: Bà Phan Thị A mặt dù được Tòa án triệu tập hợp lệ xét xử lần thứ hai nhưng bà A vắng mặt không lý do, căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành đưa vụ án ra xét xử.

 [3] Về nội dung vụ án: Ngày 02/11/2007 bà Phan Thị A có ký khế ước số 6000005100074067 với Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam - Phòng giao dịch huyện V vay số tiền là 24.600.000 đồng, vay ngày 02/11/2007, hạn trả 12/5/2016, lãi suất là 0,5%/tháng. Đến ngày 12/7/2017 thì bá A có trả cho Ngân hàng vốn vay là 1.000.000đồng và lãi 244.000đồng. Nay Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam yêu cầu bà Phan Thị A có trách nhiệm hoàn trả cho Ngân hàng số tiền vốn vay còn nợ là 23.600.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 02/11/2007 đến ngày 01/9/2017 là 12.441.656đồng và yêu cầu tính lãi từ ngày 02/9/2017đến khi bà A trả hết nợ cho Ngân hàng theo hợp đồng đã ký với Ngân hàng.

Bà Phan Thị A thừa nhận vào năm 2007 bà A có vay của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam số tiền 24.600.000đồng, thời hạn vay là 10 năm, mục đích vay là để làm chi phí cho con bà A đi học, từ khi vay đến nay bà A chỉ trả vốn vay cho Ngân hàng được 1.000.000đồng và đóng lãi được 01 lần với số tiền 244.000đồng. Nay bà A thừa nhận còn nợ và đồng ý trả cho Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam số tiền 23.600.000đồng và lãi theo yêu cầu của Ngân hàng. Nhưng hiện nay bà A chưa có khả năng cho Ngân hàng khi nào có khả năng thì bà A mới trả.

Xét yêu cầu của các đương sự Hội đồng xét xử nhận thấy: Việc bà A có vay 24.600.000đồng của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam là có thật được các bên đương sự thừa nhận. Hiện bà A đã trả được cho Ngân hàng 1.000.000đồng và đóng lãi được 244.000đồng nên việc Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam yêu cầu bà Phan Thị A có nghĩa vụ hoàn trả cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam số tiền nợ gốc là 23.600.000đ và số tiền lãi bà A còn nợ tính đến ngày 01/9/2017 là 12.441.656đồng và yêu cầu tiếp tục tính lãi từ ngày 02/9/2017 đến khi bà A trả hết nợ cho Ngân hàng theo khế ước đã ký với Ngân hàng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Bà Phan Thị A bị buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự nên bà A phải nộp án phí sơ thẩm dân sự theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự;

Căn cứ vào Điều 147, Điều 235 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam.

Buộc bà Phan Thị A có nghĩa vụ hoàn trả cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam số tiền nợ gốc còn nợ là 23.600.000đ và tiền lãi còn nợ tính từ ngày 02/11/2007 đến ngày 01/9/2017 là 12.441.656đ và tiếp tục tính lãi từ ngày 02/9/2017 đến khi bà Phan Thị A trả hết nợ cho Ngân hàng theo khế ước đã ký với Ngân hàng.

2. Án Phí:

Bà Phan Thị A phải chịu án sơ thẩm là 1.802.000đồng.

Báo cho đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 01/9/2017. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này kể từ ngày nhận hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

362
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2017/DSST ngày 01/09/2017 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

Số hiệu:41/2017/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành:
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:01/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về