Bản án 411/2020/HS-ST ngày 21/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 411/2020/HS-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 397/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 406/2020/QĐXXST- HS ngày 31 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T - tên gọi khác: Không; sinh năm 1980 tại TH; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Xóm T, xã V, huyện Đ, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1928 và con bà Đàm Thị T1, sinh năm 1950; Bị cáo có vợ là Lê Thị Minh H, sinh năm 1981; Có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2017;

Tiền án: 01 - Tại bản án số 97/2018/HSST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh TH xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp T sản”. Chấp hành xong ngày 28/10/2019.

+ Tiền sự: 01- Tại Quyết định số 25223/QĐ – XPVPHC ngày 16/3/2018 của Công an huyện Đ xử phạt 750.000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. bị cáo chưa nộp khoản tiền trên.

Nhân thân: 02 + Bản án số 167/2014/HSST ngày 18/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện G, thành phố H xử phạt 34 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong ngày 01/9/2016, nộp án phí ngày 13/4/2016, không phạt bổ sung.

+ Ngày 17/6/2020 Công an huyện Đ, thành phố H khởi tố vụ án, ngày 15/7/2020 khởi tố bị can Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp T sản”.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/6/2020 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Đàm Thị T1, sinh năm 1950 – trú tại Xóm T, xã V, huyện Đ, tỉnh TH (Có mặt)

- Người chứng kiến: Ông Trần Đức B, sinh năm 1964 - trú tại tổ dân phố G, phường Đ, thành phố TH (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 50 phút ngày 12/6/2020, tổ công tác Công an phường Đ, thành phố TH làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực tổ dân phố Đ của phường thì phát hiện một nam thanh niên điều khiển xe môtô BKS 20M8 -7053 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận kiểm tra, do hoảng sợ nên nam thanh niên đã ném từ tay trái ra 02 gói giấy bạc màu vàng xuống đất cách vị trí đang đứng 01m. Quá trình kiểm tra, nam thanh niên trên khai tên Nguyễn Văn T và tự giác dùng tay trái nhặt 02 gói giấy bạc màu vàng giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác tiến hành kiểm tra 02 gói giấy bạc màu vàng bên trong đều chứa chất bột màu trắng. T khai là Heroine của T mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn thu giữ của T 01 xe môtô BKS 20M8 -7053.

Cùng ngày, tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T có khối lượng 0,220 gam niêm phong ký hiệu A1gửi giám định.

Kết luận giám định số 902/KL -KTHS ngày 10/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Khối lượng chất bột màu trắng thu giữ ban đầu của Nguyễn Văn T là 0,220 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 3723/C09 –TT2 ngày 21/6/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ công an kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 12/6/2020, T một mình điều khiển xe môtô biển kiểm soát 20M8 -7053 đi đến khu vực cầu G thuộc phường Đ, thành phố TH mục đích tìm mua ma túy về sử dụng.

Tại đây, T gặp và mua 02 gói ma túy được gói bằng giấy bạc màu vàng của một nam thanh niên không quen biết với giá 200.000đ. Mua xong, T cầm số ma túy trên ở lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe môtô đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến khu vực tổ dân phố Đ, phường Đ thì bị tổ công tác của Công an phường yêu cầu kiểm tra, do hoảng sợ nên T đã ném 02 gói ma túy vừa mua xuống đất cách vị trí T đứng 01m thì bị phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng như trên.

Vật chứng của vụ án gồm:

+ 01 (một) bì niêm phong ký hiệu 3723/C02 – TT2 là đối tượng hoàn lại sau giám định;

+ 01 xe môtô nhãn hiệu SYM ATILA màu vàng BKS 20M8 -7053 đã qua sử dụng. Hiện cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH đã trả lại cho bà Đàm Thị T1, sinh năm 1950 – trú tại Xóm T, xã V, huyện Đ, tỉnh TH là chủ sở hữu quản lý và sử dụng.

Bản Cáo trạng số 401/CT -VKSTPTN ngày 21 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, phù hợp với các T liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt Nguyễn Văn T từ 30 đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu 3723/C02 – TT2 là đối tượng hoàn lại sau giám định;

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn tự nguyện, khách quan và phù hợp với các chứng cứ, T liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản cân xác định khối lượng, biên bản mở niêm phong vật chứng, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Hồi 08 giờ 50 phút ngày 12/6/2020, tại khu vực tổ dân phố Đ, phường Đ, thành phố TH, Nguyễn Văn T đang có hành vi tàng trữ 0,220 gam Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xét xử nghiêm minh để đảm bảo tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhân thân rất xấu, đã bị xét xử nhiều lần nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, xét cần lên cho bị cáo một mức án nghiêm khắc phù hợp với hành vi bị cáo gây ra. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải đã khai nhận hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Năm 2019 Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh TH xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp T sản” chưa được xóa án, vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS là tái phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS. Tại phiên tòa xác định bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án: Cần tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong số 3723/C09(TT2). Bì niêm phong chứa chất ma túy - Mẫu hoàn lại sau giám định. Trên mặt phong bì có 03 dấu đỏ của Viện KHHS – Bộ công an và chữ ký của Nguyễn Thị V, Vũ Thị L.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự. Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số Heroin bị thu giữ, bị cáo khai mua của một nam thanh niên tại khu vực tổ A, phường T. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người này, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

+ Đối với bà Đàm Thị T1 là người cho Nguyễn Văn T mượn chiếc xe môtô nhãn hiệu SYM ATILA màu vàng BKS 20M8 -7053 đã qua sử dụng, nhưng bà T1 không biết bị cáo sử dụng chiếc xe trên vào mục đích phạm tội. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu quản lý và sử dụng và không xử lý bà Đàm Thị T1 là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" 2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/6/2020.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong số 3723/C09(TT2). Bì niêm phong chứa chất ma túy - Mẫu hoàn lại sau giám định. Trên mặt phong bì có 03 dấu đỏ của Viện KHHS – Bộ công an và chữ ký của Nguyễn Thị Vân A, Vũ Thị L.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận số 444 ngày 20/8/2020 giữa Công an thành phố TH với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH)

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp Ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 411/2020/HS-ST ngày 21/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:411/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về