Bản án 40/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội trộm cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 40/2021/HS-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 761/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXXST - HS ngày 05 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Hồng S, sinh năm 1997 tại Đồng Nai (có mặt); Nơi cư trú:

113, tổ 5, khu phố Đồng, phường Phước Tân, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: sinh viên; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Hồng, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1976, bị cáo là con duy nhất trong gia đình; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: kh ng Nhân thân:

Ngày 16/9/2020, Lê Hồng S bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 (tám) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số: 72/2020/HS-ST ngày 16-9-2020.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

- Bị hại:

1/ Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm: 1976 (có mặt).

Địa chỉ: 113, tổ 5, khu phố Đồng, phường Phước Tân, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

2/ Ông Lê Tấn V, sinh năm 1996 (có mặt).

Địa chỉ: 42, tổ 4, khu phố Hương Phước, phường Phước Tân, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

3/ Ông Đoàn Hải N, sinh năm 1995 (có mặt).

Địa chỉ: 49, tổ 14, khu phố Miễu, phường Phước Tân, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Vũ Hữu H, sinh năm 1975 (có mặt).

Địa chỉ: G276A, tổ 1, khu phố 7, phường Long Bình, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

2/ Ông Đinh Văn H, sinh năm 1989 (có mặt).

Địa chỉ: Tổ 30, khu phố 5A, phường Trảng Dài, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

3/ Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1985 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn Quyết Thắng, xã Quảng Thịnh, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Hồng S thường xuyên chơi game online trên trang web “Gowin” và bị thua, do cần tiền nạp vào tài khoản game và trả nợ nên Sơn đã có hành vi trộm cắp tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cụ thể như sau:

Hành vi trộm cắp tài sản: Khoảng 08 giờ ngày 22/12/2019, Sơn ở nhà một mình tại số 113, tổ 5, khu phố Đồng, phường Phước Tân, thành phố B, tỉnh Đồng Nai nên nảy sinh ý định trộm cắp tiền của mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Thu H. Thực hiện ý định, Sơn vào phòng ngủ của bà Hương, dùng chìa khóa đặt trên tủ thờ ở phòng khách mở tủ sắt đặt trong phòng ngủ của bà Hương lấy trộm số tiền 120 000 000đồng (Một trăm hai mươi triệu đồng) rồi xáo trộn đồ đạc trong phòng nhằm tạo hiện trường giả. Sau khi trộm được tiền, Sơn đến cửa hàng Viettel tại khu phố Vườn Dừa, phường Phước Tân, thành phố B, tỉnh Đồng Nai chuyển hết số tiền trên vào tài khoản 19032537108010 của Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam do Nguyễn Văn M ngụ tại thôn Quyết Thắng, xã Quảng Thịnh, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa làm chủ để trả nợ Đến khoảng 13 giờ 50 phút cùng ngày, bà Hương nhận được tin báo của hàng xóm, về nhà kiểm tra, phát hiện bị mất số tiền trên nên đến C ng an phường Phước Tân, thành phố B trình báo Qua điều tra, xác minh, C ng an phường Phước Tân, thành phố B đã mời Sơn về làm việc, tại đây Sơn đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung nêu trên C ng an phường Phước Tân, thành phố B lập hồ sơ, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B điều tra, xử lý.

Trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Thu H không yêu cầu Lê Hồng S bồi thường thiệt hại.

Quá trình Cơ quan điều tra đang giải quyết vụ việc trên, Sơn tiếp tục thực hiện 02 lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

Lần thứ nhất, do có ý định chiếm đoạt xe mô tô của ông Lê Tấn V (là bạn của Sơn) nên ngày 05/4/2020, Sơn điều khiển xe mô tô biển số 60L8-8328 đến nhà ông Vũ tại khu phố Hương Phước, phường Phước Tân, thành phố B nói dối với ông Vũ mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 60F2- 805.21 của ông Vũ để đi Vũng Tàu chơi và hẹn ngày 06-4-2020 sẽ trả xe lại, đồng thời Sơn để chiếc xe mô tô biển số 60L8-8328 tại nhà ông Vũ để làm tin. Tin tưởng nên ông Vũ giao chiếc xe mô tô cùng giấy chứng nhận đăng ký xe m t trên cho Sơn Có được tài sản, Sơn mang chiếc xe m t trên đến tiệm cầm đồ “Huy Hùng” thuộc khu phố 7, phường Long Bình, thành phố B do ông Vũ Hữu H làm chủ cầm được số tiền 18 000 000đồng (Mười tám triệu đồng). Số tiền này, Sơn đưa hết cho Công (không rõ họ tên, địa chỉ) để trả nợ Đến hẹn không thấy Sơn trả lại xe nên ông Vũ nhiều lần gọi điện thoại nhưng Sơn nói dối đang đi c ng việc rồi tắt điện thoại Đến ngày 15/4/2020, ông Vũ đến Công an phường Phước Tân, thành phố B trình báo sự việc.

Vật chứng thu giữ, gồm:

- 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 60F2-805.21 và 01 (Một) giấy chứng nhận xe mô tô mang tên Lê Tấn V thuộc sở hữu của ông Lê Tấn V, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu hồi, trả lại cho ông Vũ - 01 (Một) xe mô tô biển số 60L8-8328 thuộc sở hữu của bà Nguyễn Thị Thu H (là mẹ ruột của Sơn) đưa cho Sơn dùng làm phương tiện đi lại, không biết Sơn dùng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho bà Hương - 01 (Một) giấy hợp đồng cầm đồ xe mô tô 60F2-805.21 tại tiệm cầm đồ Bảo Hưng ngày 05/4/2020: lưu hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự:

- Ông Lê Tấn V đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu Lê Hồng S bồi thường thiệt hại.

- Ông Vũ Hữu H yêu cầu Lê Hồng S bồi thường số tiền 18 000 000 đồng (Mười tám triệu đồng).

Lần thứ hai, với thủ đoạn tương tự, ngày 14/4/2020, Sơn điều khiển xe mô tô biển số 60X9-9197 đến nhà của ông Đoàn Hải N (là bạn của Sơn) ngụ tại khu phố Miễu, phường Phước Tân, thành phố B nói dối mượn 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner, biển số 60F2-638.60 của ông Nam để đi c ng việc ở thành phố Hồ Chí Minh và hứa sẽ trả xe trong ngày cho ông Nam Tin tưởng, ông Nam giao chiếc xe mô tô cùng giấy chứng nhận đăng ký xe m t trên cho Sơn, còn chiếc xe mô tô biển số 60X9-9197 Sơn để lại cho ông Nam Sau đó, Sơn điều khiển chiếc xe mô tô của ông Nam đến tiệm cầm đồ “Bảo Hưng” thuộc khu phố 5, phường Trảng Dài, thành phố B do ông Đinh Văn H làm chủ cầm được số tiền 18 000 000đồng (Mười tám triệu đồng). Số tiền này, Sơn chuyển vào tài khoản của Mạnh 17 400 000đồng (Mười bảy triệu bốn trăm nghìn đồng) để trả nợ, số tiền còn lại Sơn tiêu xài hết Sau khi cho mượn xe, ông Nam nhiều lần liên lạc với Sơn để đòi lại xe nhưng kh ng được nên ngày 15/4/2020, ông Nam đến C ng an phường Phước Tân, thành phố B trình báo sự việc.

Đến ngày 16/4/2020, Lê Hồng S đến C ng an phường Phước Tân, thành phố B đầu thú và thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.

Vật chứng thu giữ, gồm:

- 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner, biển số 60F2-638.60 và 01 (Một) giấy chứng nhận xe mô tô mang tên Đoàn Hải N thuộc sở hữu của ông Đoàn Hải N, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu hồi, trả lại cho ông Nam.

- 01 (Một) xe mô tô biển số 60X9-9197 thuộc sở hữu của anh Nguyễn Hoàng Phúc (là anh họ của Sơn) cho Sơn mượn để đi c ng việc, không biết Sơn sử dụng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu hồi, trả lại cho anh Phúc.

- 01 (Một) giấy hợp đồng cầm đồ xe mô tô 60F2-638.60 tại tiệm cầm đồ Bảo Hưng ngày 14/4/2020: lưu hồ sơ vụ án.

- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu đen và 01 (Một) Giấy phép lái xe mang tên Lê Hồng S thuộc sở hữu của Lê Hồng S, do không liên quan đến vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho Sơn Về trách nhiệm dân sự:

- Ông Đoàn Hải N đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu Lê Hồng S bồi thường.

- Ông Đinh Văn H yêu cầu Lê Hồng S bồi thường số tiền 18 000 000đồng (Mười tám triệu đồng).

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 192/TCKH-HĐĐG ngày 14/5/2020, của Hội đồng định giá tài sản thành phố B đã kết luận: “01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner, biển số 60F2-638.60, màu cam - đen và 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 60F2-805.21, màu xám - xanh có tổng giá trị tài sản định giá là 73 992 000đồng (Bảy mươi ba triệu chín trăm chín mươi hai nghìn đồng)” Bản cáo trạng số: 33/CT-VKSBH ngày 28/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo Lê Hồng S về các tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo cáo Lê Hồng S từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù đến 03 (ba) năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù đến 03 (ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt từ 05 (năm) năm tù đến 06 (sáu) năm tù.

Tổng hợp hình phạt với Bản án số: 72/2020/HS-ST ngày 16-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 (tám) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”

Về trách nhiệm dân sự:

Ông Đoàn Hải N và ông Lê Tấn V đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bị cáo Lê Hồng S bồi thường.

Quá trình điều tra ông Đinh Văn H yêu cầu Lê Hồng S bồi thường số tiền 18 000 000đồng (Mười tám triệu đồng). Tại phiên tòa ông Đinh Văn H không yêu cầu bị cáo Lê Hồng S bồi thường số tiền 18 000 000đồng (Mười tám triệu đồng). Nên ghi nhận.

Quá trình điều tra ông Vũ Hữu H yêu cầu bị cáo Lê Hồng S bồi thường số tiền 18 000 000đồng (Mười tám triệu đồng). Tại phiên tòa ông Vũ Hữu H không yêu cầu bị cáo Lê Hồng S bồi thường số tiền 18 000 000đồng (Mười tám triệu đồng). Nên ghi nhận.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, 47, 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Buộc ông Nguyễn Văn M nộp lại số tiền 137 400 000đồng (Một trăm ba mươi bảy triệu bốn trăm nghìn đồng) tài sản phát sinh từ tội phạm để nộp sung ngân sách nhà nước.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về việc bị cáo đã làm, kính mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, lời khai của bị hại, các chứng cứ khác có tại hồ sơ và cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố B mô tả. Từ đó đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 22/12/2019, tại nhà số 113, tổ 5, khu phố Đồng, phường Tam Phước, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Lê Hồng S đã có hành vi trộm cắp số tiền 120 000 000đồng (Một trăm hai mươi triệu đồng) của bà Nguyễn Thị Thu H Đến ngày 05/4/2020 và ngày 14/4/2020, tại phường Phước Tân, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Sơn đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner, biển số 60F2-638.60, màu cam- đen và 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 60F2-805.21, màu xám - xanh của ông Lê Tấn V và ông Đoàn Hải N Đến ngày 16/4/2020, bị cáo Sơn đến C ng an phường Phước Tân, thành phố B, tỉnh Đồng Nai đầu thú.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 192/TCKH-HĐĐG ngày 14/5/2020, của Hội đồng định giá tài sản thành phố B đã kết luận: “01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner, biển số 60F2-638.60, màu cam - đen và 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 60F2-805.21, màu xám - xanh có tổng giá trị tài sản định giá là 73 992 000đồng (Bảy mươi ba triệu chín trăm chín mươi hai nghìn đồng)” Hành vi của bị cáo Lê Hồng S đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sở hữu tài sản của công dân. Nên cần có một mức án nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung [3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị cáo phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo ra đầu thú quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Bị cáo có nhân thân xấu : Ngày 16/9/2020, Lê Hồng S bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 (tám) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số: 72/2020/HS-ST ngày 16-9-2020.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Ông Đoàn Hải N và ông Lê Tấn V đã nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo Lê Hồng S bồi thường nên Hội đồng xét xử kh ng đặt ra xem xét, giải quyết.

Quá trình điều tra ông Đinh Văn H yêu cầu Lê Hồng S bồi thường số tiền 18 000 000đồng (Mười tám triệu đồng). Tại phiên tòa ông Đinh Văn H không yêu cầu bị cáo Lê Hồng S bồi thường số tiền 18 000 000đồng (Mười tám triệu đồng). Nên ghi nhận.

Quá trình điều tra ông Vũ Hữu H yêu cầu bị cáo Lê Hồng S bồi thường số tiền 18 000 000đồng (Mười tám triệu đồng). Tại phiên tòa ông Vũ Hữu H không yêu cầu bị cáo Lê Hồng S bồi thường số tiền 18 000 000đồng (Mười tám triệu đồng). Nên ghi nhận.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, 47, 48 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Buộc ông Nguyễn Văn M nộp lại số tiền 137 400 000đồng (Một trăm ba mươi bảy triệu bốn trăm nghìn đồng) tài sản phát sinh từ tội phạm để sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Về tổng hợp hình phạt: Bản án số: 72/2020/HS-ST ngày 16-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xử phạt bị cáo Lê Hồng S 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án phạt tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để tổng hợp với hình phạt của hai tội đang bị xét xử.

[8] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Hồng S phải chịu 200 000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Đối với ông Vũ Hữu H và ông Đinh Văn H khi cầm xe mô tô cho bị cáo Sơn, kh ng biết đây là tài sản do bị cáo Sơn lừa đảo chiếm đoạt mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không xử lý là phù hợp.

[10] Đối với ông Nguyễn Văn M thừa nhận có nhận số tiền 137 400 000đồng (Một trăm ba mươi bảy triệu bốn trăm nghìn đồng) của bị cáo Lê Hồng S do bị cáo Sơn thiếu nợ ông Mạnh, đồng thời ông Mạnh không biết số tiền này là do bị cáo Sơn phạm tội mà có, hiện ông Mạnh đã tiêu xài hết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B chưa thu hồi được Đối với việc bị cáo Sơn và ông Mạnh trao đổi để mua tiền ảo chơi đánh bạc trên mạng, cả hai không thừa nhận, ngoài lời khai ban đầu của bị cáo Sơn khai nhận thì không có tài liệu, chứng cứ nào khác để kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tỉnh Đồng Nai đang tiếp tục, xác minh, làm rõ, xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Hồng S phạm các tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Hồng S 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng điểm điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Hồng S 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Lê Hồng S phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/7/2020.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Tổng hợp hình phạt của tội đang bị xét xử với hình phạt 08 (tám) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 72/2020/HS-ST ngày 16-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Buộc bị cáo Lê Hồng S chấp hành hình phạt chung là 06 (sáu) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/7/2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, 47, 48 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Buộc ông Nguyễn Văn M nộp lại số tiền 137 400 000đồng (Một trăm ba mươi bảy triệu bốn trăm nghìn đồng) tài sản phát sinh từ tội phạm để sung vào ngân sách nhà nước.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Hồng S phải chịu 200 000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại bà Nguyễn Thị Thu H, ông Lê Tấn V, ông Đoàn Hải N;

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vũ Hữu H, ông Đinh Văn H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn M vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội trộm cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:40/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về