TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 40/2021/HSPT NGÀY 24/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 24/3/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 21/TLPT-HS ngày 25 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Lê Văn N, do có kháng cáo của bị cáo Lê Văn N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2020/HSST ngày 15/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện YD, tỉnh Bắc Giang.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Lê Văn N, sinh năm 1985; Tên gọi khác: Không; Địa chỉ: Thôn TL, xã TD, huyện YD, tỉnh BG; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Đảng/đoàn thể: Đảng viên (Quyết định đình chỉ sinh hoạt đảng số 17/QĐ-UBKTHU ngày 18/11/2020); Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn T, sinh năm 1940 và con bà Phạm Thị L1, sinh năm 1946; Bị cáo có vợ Phạm Thị A1, sinh năm 1985 và có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2006 .
Tiền án: Không.
Tiền sự: Ngày 28/4/2020, Công an xã TA Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vị Đánh bạc dưới hình thức phạt tiền.
Bị bắt quả tang, bị tạm giữ từ 14/6/2020 đến 17/6/2020 được thay thế áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra trong vụ án còn có một số bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 14/6/2020, Hoàng Văn A, sinh năm 1984; Nguyễn Hồng S, sinh năm 1987 đến nhà của Dương Văn H, ở cùng thôn chơi, sau đó A và S rủ nhau đánh bạc dưới hình thức đánh liêng tại nền phòng khách nhà H. Khi S và A đang đánh bạc thì Phạm Văn T, Lê Hồng P, Lê Duy H, sinh năm 1981; Chu Văn T, sinh năm 1984; Nguyễn Văn L, sinh năm 1988; Đào Xuân T1, sinh năm 1976 cùng ở thôn TL, xã TD; Nguyễn Đức N1 và Phạm Văn N1, sinh năm 1989 cùng ở thôn DT, xã TD đến nhà của H, thấy A và S đang đánh bạc nên P, T, T1, H, N, N1 vào tham gia đánh bạc với S, còn A không chơi nữa và ngồi ngoài xem các đối tượng đánh bạc. Đánh bạc được một lúc thì H không chơi bạc nữa và đi ra ngoài giải quyết việc riêng. Sau đó có Đỗ Văn C, sinh năm 1987, ở thôn TL, xã TD đến thấy mọi người đánh bạc nên vào tham gia đánh bạc cùng các đối tượng. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày thì T1, N, N1, S không chơi nữa và đi về. Lúc này có Nguyễn Văn T2 và Lê Văn N, cùng ở thôn TL, xã TD đến nhà H chơi. Tại đây, P, T1, T2 và N rủ nhau đánh bạc dưới hình thức đánh liêng, mức đặt cược thấp nhất là 50.000đ, cao nhất là 100.000đ. Còn L, A, C, H, T1 và H ngồi ngoài xem các đối tượng đánh bạc.
Cách thức đánh bạc được quy định như sau: một người chơi sẽ chia cho mỗi người chơi 03 quân bài, trước khi lên bài, mỗi người chơi đặt số tiền cược là 50.000 đồng ra giữa chiếu gọi là “gà”, sau khi đặt cược xong các đối tượng sẽ lên bài tính điểm. Lần lượt từ người chia bài sẽ bỏ số tiền từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng ra để cược gọi là "tố", nếu người chơi tiếp theo không "tố" thì sẽ úp bài và mất số tiền đặt cược ban đầu, người liền kế bên cạnh sẽ được quyền "tố" và theo vòng tròn, ai theo tố thì sẽ bỏ số tiền tương ứng, ai không theo sẽ úp bài và mất số tiền đặt cược. Cứ như vậy cho đến khi hết vòng thì tính điểm. Cách tính điểm là các quân bài từ Át đến 9 sẽ tương ứng từ 01 đến 09 điểm, các quân bài từ 10 đến K sẽ được tính là 10 điểm (hay 0 điểm), người chơi tính điểm theo Hng đơn vị để so bài với nhau, ai cao điểm nhất sẽ được toàn bộ số tiền cược ban đầu và tiền "tố", nếu bài của người chơi bằng nhau về số điểm thì sẽ so theo chất rô, cơ, tép, bích. Nếu người nào có 3 quân bài giống nhau khác chất như 3 quân K, 3 quân 2...thì được gọi là sáp, sáp là cao nhất của liêng, trong sáp thì cao nhất là 3 quân A, thấp nhất là 3 quân 2. Người nào có 3 quân bài theo thứ tự như A - 2 -3; 4- 5 -6; J - Q- K... thì được gọi là liêng, người nào có 3 quân bài bất kỳ từ J đến K như J-J-K; Q- K-K ... thì được gọi là tranh ảnh. Theo thỏa thuận của các đối tượng thì cao nhất là sáp, sau đến liêng rồi đến tranh ảnh và sau cùng là tính điểm. Người nào thắng ván đó sẽ được toàn bộ số tiền đặt cược ban đầu, tiền "tố" và được quyền chia bài ván tiếp theo. Trường hợp có người được “sáp” hoặc “liêng đồng hoa” thì mỗi người chơi còn lại phải trả thêm cho người thắng số tiền lần lượt là 50.000 đồng hoặc 100.000 đồng. Sau khi thỏa thuận xong thì các đối tượng cùng nhau đánh bạc.
Đến 17 giờ cùng ngày, khi P, T1, T2 và N đanh đánh bạc thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện YD phát hiện đến bắt quả tang. Tang vật thu giữ gồm:
Thu tại nền nhà, nơi các đối tượng ngồi đánh bạc 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 1.000.000 đồng.
Thu giữ trên người các đối tượng:
Dương Văn H: 100.000đ và 01 điện thoại di động Nokia màn hình đen trắng;
Nguyễn Văn T2: 1.700.000đ và 01 điện thoại di động Samsung Galxy A50; Phạm Văn T: 420.000đ và 01 điện thoại Samsung Galaxy A9;
Lê Hồng P: 2.750.000đ Hoàng Văn A: 3.750.000đ và 01 điện thoại di động Samsung màu đen; Đỗ Văn C: 580.000đ và 01 điện thoại di động Iphone X;
Chu Văn T: 01 điện thoại di động Iphone 8 và 2.500.000đ;
Lê Duy H: 11.040.000đ và 01 điện thoại di động Samsung màu tím;
Nguyễn Văn L: 01 điện thoại di động Oppo;
Ngày 15/6/2020, Nguyễn Đức N1 đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện YD đầu thú và khai nhận về hành vi đánh bạc của bản thân.
Tại Cơ quan điều tra, Phạm Văn T, Nguyễn Văn T2, Lê Văn N; Lê Hồng P và Nguyễn Đức N1 đều thừa nhận hành vi có tham gia đánh bạc như trên.
Dương Văn H không đánh bạc, nhưng sử dụng nhà ở của mình cho các bị cáo đánh bạc và được hưởng lợi 100.000 đồng.
Như vậy, xác định tổng số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc là 5.970.000 đồng (gồm 1000.000 đồng trên chiếu bạc; 1.750.000đồng trên người P; 100.000 đồng thu trên người H; 1.700.000 đồng thu trên người T2; 420.000 đồng thu trên người T1).
Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2020/HSST ngày 15/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện YD, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:
1. Tuyên bố các bị cáo: Dương Văn H, Phạm Văn T, Nguyễn Văn T2, Lê Văn N; Lê Hồng P và Nguyễn Đức N1 phạm tội “Đánh bạc”.
2. Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, 58 và Điều 65 Bộ luật hình sự. Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Xử phạt: Dương Văn H 07 (Bẩy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Phạt bị cáo 10 triệu đồng sung vào ngân sách NH Nước.
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, 58 và Điều 65 Bộ luật hình sự. Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Xử phạt: Lê Hồng P 08 (Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
- Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, 58 và Điều 65 Bộ luật hình sự. Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
Xử phạt: Phạm Văn T 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Phạt bị cáo 10 triệu đồng sung vào ngân sách Nhà Nước.
Nguyễn Văn T2 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Phạt bị cáo 10 triệu đồng sung vào ngân sách Nhà Nước.
- Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt: Nguyễn Đức N1 06 (Sáu) tháng tù. Phạt bị cáo 10 triệu đồng sung vào ngân sách Nhà Nước.
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51, Điều 17, 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự. Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt: Lê Văn N 06 (Sáu) tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
Ngoài ra bản án còn tuyên phần xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo, quyền thi Hành án theo quy định.
Ngày 25, 28/12/2020 bị cáo Lê Văn N, Nguyễn Đức N1 kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Đức N1 có đơn xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Việc rút đơn của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã ra thông báo về việc rút kháng cáo đối với bị cáo N1.
Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Lê Văn N sửa đổi yêu cầu kháng cáo của mình, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và không xin hưởng án treo nữa: Bán án sơ thẩm xét xử bị cáo như vậy là nặng. Bị cáo xin giảm nhẹ với lý do gia đình hoàn cảnh khó khăn, bố mất sớm, mẹ bị ung thư trực tràng, vợ thường xuyên đau ốm, con còn nhỏ, hiện nay là lao động chính trong gia đình. Bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy mong hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Án sơ thẩm xử bị cáo là đúng người đúng tội và không oan. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình các giấy tờ liên quan đến hoàn cảnh gia đình chứng minh mình là lao động chính trong gia đình. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bố là người có công với các mạng được tặng thưởng huân cương kháng chiến nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo còn trẻ, là lao động chính trong gia đình, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 chấp nhận kháng cáo của bị cáo và sửa bản án sơ thẩm, phạt bị cáo 03 tháng tù.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo được làm trong thời hạn kháng cáo theo đúng quy định tại Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên xác định là đơn kháng cáo hợp pháp, được chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo thấy:
+ Về tội danh: Hồi 16 ngày 14/6/2020, tại nhà ở của Dương Văn H ở thôn TK, xã TD, huyện YD, tỉnh BG. Phạm Văn T, Nguyễn Văn T2, Lê Văn N; Lê Hồng P và Nguyễn Đức N1 có Hành vi đánh bạc trái phép sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức đánh liêng, với mức đặt cược thấp nhất là 50.000 đồng, cao nhất là 100.000đồng. Đến 17 giờ cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện YD phát hiện bắt quả tang. Tổng số tiền các bị cáo dùng đánh bạc là 5.970.000 đồng.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Các lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với thời gian, địa điểm và vật chứng đã được thu giữ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Do đó Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2020/HSST ngày 15/12/2020 xét xử đối với bị cáo Lê Văn N về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
+ Về hình phạt: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình để xử phạt bị cáo 06 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bố là người có công với các mạng được tặng thưởng huân cương kháng chiến nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình các giấy tờ liên quan đến hoàn cảnh gia đình chứng minh mình là lao động chính trong gia đình, hơn nữa bị cáo thuộc diện hộ nghèo, bố mất, mẹ bị ung thư, vợ thường xuyên đau ốm, con nhỏ. Đây là tình tiết mới tại cấp phúc thẩm, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo N không phải chịu áp phí hình sự phúc thẩm theo quy định. Bị cáo Nguyễn Đức N1 rút kháng cáo trược khi mở phiên tòa nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
[1]. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn N, sửa bản án sơ thẩm:
- Tuyên bố bị cáo Lê Văn N phạm tội “Đánh bạc”.
- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 54; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Lê Văn N 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 15/6/2020 đến 17/6/2020).
[2]. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo Lê Văn N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 40/2021/HSPT ngày 24/03/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 40/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về