TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 40/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/05/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ H VÀ ANH T
Ngày 13 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 12/2021/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2021 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐXX-ST ngày 02 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Ngọc H, sinh năm 1987; Nơi cư trú: ấp T, xã Đ, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1977;
Nơi cư trú tại: ấp H, xã P, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Chị H và anh T vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt đề ngày 02/4/2021, lời trình bày tại các biên bản trong quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Phạm Thị Ngọc H trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Thanh T kết hôn vào năm 2013, hôn nhân do anh chị tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre vào ngày 24/6/2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng có bất đồng về quan điểm trong cuộc sống; vợ chồng thường hay tranh cãi nên cuộc sống mất dần hạnh phúc. Thời gian kéo dài nhưng vợ chồng vẫn không khắc phục được mâu thuẫn nên đã ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị với anh T không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.
Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị và anh T không có con chung, không có tài sản chung và cũng không có nợ chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt đề ngày 02/4/2021.
Bị đơn anh Nguyễn Thanh T trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải, photo hồ sơ khởi kiện theo đúng qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh T đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến hay yêu cầu của anh T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Quan hệ tranh chấp giữa chị Phạm Thị Ngọc H và anh Nguyễn Thanh T là tranh chấp về ly hôn, bị đơn anh T hiện đang cư trú tại xã Phú An Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã tống đạt hợp lệ thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải nhiều lần nhưng bị đơn anh T vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án đã tiến hành lập biên bản không hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự và đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn anh T vẫn vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2, chị H có đơn xin vắng mặt. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị H và anh T.
[2] Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Ngọc H và anh Nguyễn Thanh T kết hôn vào năm 2013, hôn nhân do anh chị tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre vào ngày 24/6/2013 (số 18/2013, quyển số I/2013) nên hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Chị H xác định nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn là do do vợ chồng có bất đồng về quan điểm trong cuộc sống; vợ chồng thường hay tranh cãi nên cuộc sống mất dần hạnh phúc. Thời gian kéo dài nhưng vợ chồng vẫn không khắc phục được mâu thuẫn nên đã ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Theo đơn yêu cầu của chị H, Tòa án đã gửi toàn bộ tài liệu, chứng cứ (gồm đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện) cho anh T nhưng anh T không có ý kiến phải hồi. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần mở phiên hòa giải để hai bên hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh T không tham gia phiên hòa giải; điều đó cho thấy, anh T không có thiện chí mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Từ đó có cơ sở để xác định, tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu duy trì tình trạng này sẽ ảnh hưởng đến đời sống bình thường của các thành viên trong gia đình nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.
[3] Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị H khai không có. Xét thấy, anh T vắng mặt trong quá trình tố tụng, Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh Trung về phần con chung, tài sản chung và nợ chung nên Tòa án không xem xét.
[4] Về án phí: Chị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 147, 207, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho chị Phạm Thị Ngọc H ly hôn với anh Nguyễn Thanh T.
2. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Tòa án không xem xét.
3. Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004815 ngày 25/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành. Đương sự đã nộp đủ án phí.
Chị Hường và anh Trung vắng mặt tại phiên tòa nên có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 40/2021/HNGĐ-ST ngày 13/05/2021 về ly hôn giữa chị H và anh T
Số hiệu: | 40/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về