Bản án 40/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 40/2020/HS-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 43/2020/TLST - HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2020/QĐXXST - HS ngày 17 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Hứa Tiến N, sinh năm 1984 tại tỉnh Thái Nguyên.

Nơi ĐKNKTT: Tổ 14, phường H, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lái xe; đoàn thể, đảng: không; trình độ văn hóa (học vấn) lớp 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hứa Sỹ C và bà Dương Thị P; có vợ Đỗ Trang T và 01 con; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/3/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt tại phiên tòa).

- Người bào chữa cho bị cáo Hứa Tiến N (luật sư chỉ định): Ông Vũ Trung Kiên – Luật sư, Công ty Luật TNHH MTV Quốc Cường thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Tuyên Quang. (Có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Hứa Văn Đ, sinh năm 1990;

Địa chỉ: Ngõ 100, đường P, tổ 17, phường H, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa) * Người làm chứng:

- Chị Đỗ T T, sinh năm 1990;

Địa chỉ: Tổ 14, phường H, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; (Có đơn xin xét xử vắng mặt) - Anh Đỗ Duy P, sinh năm 1988;

Địa chỉ: Tổ 9, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 45 phút ngày 04/3/2020, Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tuyên Quang phối hợp với Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tuyên Quang làm nhiệm vụ tuần tra trên đoạn đường ĐT 186 thuộc thôn Đất Đỏ, xã Vĩnh Lợi, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang phát hiện xe ô tô nhãn hiệu Huyndai loại Gran i10, BKS 20A-22678 (xe ô tô của Công ty TNHH dịch vụ taxi Miền Bắc địa chỉ: số 140, phường H, thành phố T) do Hứa Tiến N điều khiển đang lưu thông trên đường. Tổ công tác yêu cầu N dừng xe để kiểm tra, phát hiện trên xe ô tô còn có Đỗ Duy P và Đỗ Trang T (vợ N). Tổ công tác đưa N, P, T và xe ô tô về Trụ sở Đội Phòng cháy chữa cháy cứu hộ, cứu nạn khu công nghiệp Long Bình An thuộc thôn Đất Đỏ, xã Vĩnh Lợi, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang để làm việc vì nghi có liên quan đến ma túy. Tiến hành kiểm tra xe ô tô phát hiện tại hốc để đồ trên cánh cửa bên phải phía sau của xe ô tô 01 hộp nhựa màu trắng, bên ngoài có mác kẹo cao su Singgum nhãn hiệu Coolair, bên trong đựng 01 túi nilon chứa các hạt tinh thể màu trắng và 01 túi nilon chứa 30 viên nén màu hồng; thu giữ tại hốc để đồ gần cần số xe ô tô 01 viên nén màu xám. Tổ công tác đã thu giữ và niêm phong số ma túy đồng thời lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hứa Tiến N. Số ma túy trên, N khai ngày 01/3/2020, N mua tại khu vực Bờ Đậu, thành phố T mua 01 viên ma túy của một người đàn ông không biết tên và địa chỉ, với giá 200.000 đồng. N cất viên ma túy vào hốc để đồ gần cần số của xe ô tô, với mục đích để bán kiếm lời.

Căn cứ lời khai của N, ngày 05/3/2020 Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của N và thu giữ tại giá để đồ trong phòng ngủ: 01 túi nilon màu trắng có viền chỉ màu đỏ, chứa các hạt tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu trắng có viền chỉ màu xanh, chứa các hạt tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu trắng có viền chỉ màu xanh, chứa chất bột cục màu xanh; 01 túi nilon màu trắng có chỉ nền màu đỏ, chứa 05 viên nén màu nâu nhạt, trên mỗi viên nén có chữ Cocacola. N khai về nguồn gốc số ma túy trên: Khoảng 11 giờ ngày 02/3/2020, khi đang ở nhà thì N nhận được cuộc gọi điện thoại của Nam là người quen biết với Hứa Văn Đức, bạn của N (N không nhớ số điện thoại và không biết địa chỉ của Nam) bảo N ra khu vực Trường Tiểu học Nguyễn Viết Xuân, thành phố T lấy ma túy mang xuống thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên để bán. N đồng ý và điều khiển xe ô tô BKS 20A-226.78 đi đến nơi hẹn, nhưng không gặp N1 mà chỉ gặp bạn gái của N1 (không biết tên và địa chỉ), đưa cho N 01 phòng bì và nói của Nam đưa. N cầm phong bì mang về nhà, đến tối không thấy Nam gọi điện lại nên N đã mở phong bì ra thấy bên trong có 04 gói ma túy (01 túi nilon màu trắng có viền chỉ màu xanh, chứa các hạt tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu trắng có viền chỉ màu xanh, chứa chất bột cục màu xanh; 01 túi nilon màu trắng có viền chỉ màu đỏ, chứa các hạt tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu trắng có chỉ nền màu đỏ, chứa 05 viên nén màu nâu nhạt trên mỗi viên nén có chữ cocacola), N cất số ma túy trên vào giá để đồ trong phòng ngủ.

Tại Kết luận giám định số 237 ngày 09/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận:

- Số chất tinh thể màu trắng trong lọ nhựa loại vỏ kẹo Singgum nhãn hiệu Coolair là ma túy, loại Ketamine (số thứ tự 35 thuộc danh mục III, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018) khối lượng 12,563g.

- 30 viên nén màu hồng và số chất bột vón cục màu hồng trong lọ nhựa loại vỏ kẹo Singgum nhãn hiệu Coolair là chất ma túy loại MDMA (số thứ tự 27 thuộc danh mục IB, Nghị định 73 ngày 15/5/2018) khối lượng 15,025g.

- 01 viên nén màu xám tại hốc để đồ gần cần số xe ô tô là chất ma túy loại MDMA (số thứ tự 27 thuộc danh mục IB, Nghị định 73 ngày 15/5/2018) khối lượng 0,387g.

- Số chất tinh thể màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine (số thứ tự 35 thuộc danh mục III, Nghị định 73 ngày 15/5/2018) khối lượng 4,218g.

- Số chất bột vón cục màu xanh trong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là chất ma túy, loại MDMA (số thứ tự 27 thuộc danh mục IB, Nghị định 73 ngày 15/5/2018) khối lượng 0,176g.

- 05 viên nén màu nâu trong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là chất ma túy loại MDMA (số thứ tự 27 thuộc danh mục IB, Nghị định 73 ngày 15/5/2018) khối lượng 2,473g.

Bản Cáo trạng số 42/CT-VKS-P1 ngày 29 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Hứa Tiến N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa Viện kiểm sát có văn bản rút điều khoản truy tố đối với bị cáo Hứa Tiến N từ điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự xuống điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự vì Viện kiểm sát thấy số lượng ma túy bị cáo thực hiện hành vi mua bán gồm chất ma túy MDMA và Ketamine tổng bằng 34,842g (trong đó: Ketamine là 16,781g và MDMA là 18,061g).

Căn cứ Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì tổng phần trăm của 2 chất ma túy do bị cáo mua bán là 76,98%, chưa đủ 100% theo quy định tại khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự nên hành vi của bị cáo phạm vào quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Phần tranh luận, Kiểm sát viên trình bày luận tội:

Đề nghị HĐXX tuyên bố: Bị cáo Hứa Tiến N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ: Điểm p, khoản 2 Điều 251; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hứa Tiến N từ 08 năm đến 09 năm tù Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (04/3/2020).

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Trả lại cho bị cáo Hứa Tiến N: 01 (một) Chứng minh nhân dân số: 090818359 mang tên Hứa Tiến N. 01(một) giấy phép lái xe số 190153000223 mang tên Hứa Tiến N, cấp ngày 12/01/2015. 01(một) chiếc điện thoại nhãn hiệu iPhone, số IMEL: 355830087709896. Điện thoại cũ, xước nhiều chỗ, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong máy. 01(một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO mặt trước máy màu trắng bị vỡ màn hình mặt sau máy màu hồng, số IMEL 1: 863091036405152; Số IMEL 2: 863091036405145. Điện thoại cũ, xước nhiều chỗ, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong máy.

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo Hứa Tiến N trình bày luận cứ: Nhất trí tội danh, điều luật như Kiểm sát viên đã trình bày, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 (bị cáo có ông nội là người có công với cách mạng) và Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất để bị cáo có điều kiện cải tạo, sớm trở về với gia đình và cộng đồng xã hội.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản khám xét, vật chứng thu giữ, Kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ 45 phút ngày 04/3/2020, tại khu vực thôn Đất Đỏ, xã Vĩnh Lợi, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang và ngày 05/3/2020 tại tổ 17, phường H, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; Hứa Tiến N trú tại tổ 17, phường H, thành phố T đã có hành vi Tàng trữ 16,781g ma túy, loại Ketamine (số thứ tự 35 thuộc danh mục III, Nghị định 73 ngày 15/5/2018) và 18,061g ma túy loại MDMA (số thứ tự 27 thuộc danh mục IB, Nghị định 73 ngày 15/5/2018), tổng khối lượng ma túy 34,842g nhằm bán trái phép cho người khác nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện thu giữ. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên số ma túy thu giữ của bị cáo Hứa Tiến N bao gồm Ketamine là 16,781g và MDMA là 18,061g, tổng cộng 34,842g. Sau khi chia tỷ lệ theo Nghị định 19/2018/NĐ-CP thì tổng tỷ lệ của ma túy thu giữ của bị cáo là 76,98% (trong đó Ketamin là 16,78% và MDMA là 60,2%), chưa đủ 100% theo quy định tại khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thay đổi khoản truy tố đối với bị cáo từ điểm h khoản 3 xuống điểm g khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[3] Hội đồng xét xử thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực, nhận thức được hành vi của mình nhưng đã cố ý coi thường pháp luật. Hành vi của bị cáo không những làm ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế của gia đình mà còn là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm khác phát triển, hành vi đó đi ngược lại với chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm mất an ninh chính trị tại địa P. Vì vậy, cần áp dụng một mức hình phạt tù thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời để phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần xem xét áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về mức án Viện kiểm sát đề nghị, Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo nên chấp nhận.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về luận cứ bào chữa của Luật sư: Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử ngoài áp dụng các điều khoản như đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa cần áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng, Hội đồng xét xử thấy rằng:

- Về số tiền 3.900.000đ thu giữ của bị cáo. Xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

- Đối với 01 (một) Chứng minh nhân dân số: 090818359 mang tên Hứa Tiến N; 01(một) giấy phép lái xe số 190153000223 mang tên Hứa Tiến N, cấp ngày 12/01/2015; 01(một) chiếc điện thoại nhãn hiệu iPhone, số IMEL: 355830087709896; 01(một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO mặt trước máy màu trắng bị vỡ màn hình mặt sau máy màu hồng, số IMEL 1: 863091036405152; Số IMEL 2: 863091036405145, cả hai điện thoại đều đã cũ, xước nhiều chỗ, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong máy, tạm giữ của Hứa Tiến N. Xét thấy những vật chứng này không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

- Đối với vật chứng là 01(một) hộp được niêm phong còn nguyên vẹn được dán kín, trên các mép dán có chữ ký của Hứa Tiến N và 07 (bảy) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Đã được bọc ngoài bằng băng dính. Bên trong hộp niêm phong có chứa tang vật (ma túy) thu giữ của Hứa Tiến N, đặc điểm, tình trạng, khối lượng đã được miêu tả rõ trong biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 05/03/2020; 01(một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn dán kín các mép, bên ngoài mặt trước ghi “Tang vật vụ Hứa Tiến N, Viên nén màu xám thu trên ô tô. Giám định ngày 05/03/2020”, mặt sau trên các mép dán có chữ ký của Hứa Tiến N; chữ ký của ông Lê Hoài Vũ cán bộ Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và Bà Hoàng Thị Kim Thu, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang, cùng 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Bên trong phong bì niêm phong có chứa tang vật (ma túy) thu giữ của Hứa Tiến N, đặc điểm, tình trạng, khối lượng đã được miêu tả rõ trong biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 05/03/2020; 01(một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn dán kín các mép, bên ngoài mặt trước ghi “Tang vật vụ Hứa Tiến N, Bì ký hiệu M1. Giám định ngày 05/03/2020”, mặt sau trên các mép dán có chữ ký của Hứa Tiến N, chữ ký của ông Lê Hoài Vũ cán bộ Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và Bà Hoàng Thị Kim Thu, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang cùng 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Bên trong phong bì niêm phong có chứa tang vật (ma túy) thu giữ của Hứa Tiến N, đặc điểm, tình trạng, khối lượng đã được miêu tả rõ trong biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 05/03/2020; 01(một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn dán kín các mép, bên ngoài mặt trước ghi “Tang vật vụ Hứa Tiến N, Bì ký hiệu M2. Giám định ngày 05/03/2020”, mặt sau trên các mép dán có chữ ký của Hứa Tiến N, chữ ký của ông Lê Hoài Vũ cán bộ Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và Bà Hoàng Thị Kim Thu, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang cùng 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Bên trong phong bì niêm phong có chứa tang vật (ma túy) thu giữ của Hứa Tiến N, đặc điểm, tình trạng, khối lượng đã được miêu tả rõ trong biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 05/03/2020 là vật chứng thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[8] Đối với Hứa Văn Đ, theo N khai Đ đưa ma túy cho N mang sang thành phố Tuyên Quang để bán nhưng Đ không thừa nhận. Cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp điều tra như đối chất, lấy lời khai của người chứng kiến (P, T) đi cùng xe ô tô và thu thập các tài liệu chứng cứ nhưng không đủ căn cứ chứng minh Đức giao ma túy cho N mang đi bán nên không có căn cứ xử lý.

Đối với đối tượng tên Nam và bạn gái của Nam, theo N khai đưa ma túy cho N nhờ đến thị xã Sông để bán. Nhưng do không xác định được địa chỉ của Nam và không xác định được họ tên, địa chỉ của bạn gái Nam, nên không có căn cứ để điều tra, xử lý. Do đó N phải chịu trách nhiệm hình sự toàn bộ số ma túy thu giữ trên xe ô tô và tại nhà ở của N.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tuyên Quang; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người bào chữa cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hứa Tiến N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy.

[1] Về hình phạt:

- Căn cứ: Điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt Hứa Tiến N 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (04/3/2020).

[2] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Trả lại cho bị cáo số tiền 3.900.000đ (Ba triệu chín trăm nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho bị cáo Hứa Tiến N: 01 (một) Chứng minh nhân dân số: 090818359 mang tên Hứa Tiến N; 01(một) giấy phép lái xe số 190153000223 mang tên Hứa Tiến N, cấp ngày 12/01/2015; 01(một) chiếc điện thoại nhãn hiệu iPhone, số IMEL: 355830087709896, điện thoại cũ, xước nhiều chỗ, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong máy; 01(một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO mặt trước máy màu trắng bị vỡ màn hình mặt sau máy màu hồng, số IMEL 1: 863091036405152; Số IMEL 2: 863091036405145, điện thoại cũ, xước nhiều chỗ, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong máy.

- Tịch thu tiêu hủy: 01(một) hộp được niêm phong còn nguyên vẹn được dán kín, trên các mép dán có chữ ký của Hứa Tiến N và 07 (bảy) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Đã được bọc ngoài bằng băng dính. Bên trong hộp niêm phong có chứa tang vật (ma túy) thu giữ của Hứa Tiến N, đặc điểm, tình trạng, khối lượng đã được miêu tả rõ trong biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 05/03/2020; 01(một) Phong bì niêm phong còn nguyên vẹn dán kín các mép, bên ngoài mặt trước ghi “Tang vật vụ Hứa Tiến N, viên nén màu xám thu trên ô tô. Giám định ngày 05/03/2020”, mặt sau trên các mép dán có chữ ký của Hứa Tiến N; chữ ký của ông Lê Hoài Vũ cán bộ Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và Bà Hoàng Thị Kim Thu, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang, cùng 05 hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Bên trong phong bì niêm phong có chứa tang vật (ma túy) thu giữ của Hứa Tiến N, đặc điểm, tình trạng, khối lượng đã được miêu tả rõ trong biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 05/03/2020; 01(một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn dán kín các mép, bên ngoài mặt trước ghi “Tang vật vụ Hứa Tiến N, Bì ký hiệu M1. Giám định ngày 05/03/2020”, mặt sau trên các mép dán có chữ ký của Hứa Tiến N, chữ ký của ông Lê Hoài Vũ cán bộ Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và Bà Hoàng Thị Kim Thu, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang cùng 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Bên trong phong bì niêm phong có chứa tang vật (ma túy) thu giữ của Hứa Tiến N, đặc điểm, tình trạng, khối lượng đã được miêu tả rõ trong biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 05/03/2020; 01(một) Phong bì niêm phong còn nguyên vẹn dán kín các mép, bên ngoài mặt trước ghi “Tang vật vụ Hứa Tiến N, Bì ký hiệu M2. Giám định ngày 05/03/2020”, mặt sau trên các mép dán có chữ ký của Hứa Tiến N, chữ ký của ông Lê Hoài Vũ cán bộ Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và Bà Hoàng Thị Kim Thu, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang cùng 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Bên trong phong bì niêm phong có chứa tang vật (ma túy) thu giữ của Hứa Tiến N, đặc điểm, tình trạng, khối lượng đã được miêu tả rõ trong biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 05/03/2020.

(Số tiền trả lại cho bị cáo Hứa Tiến N hiện đang tạm giữ tại tài khoản số 3949.0.1054495.00000 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang theo ủy nhiệm chi lập ngày 23/12/2020. Số vật chứng trả lại và tịch thu tiêu hủy như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tuyên Quang và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang lập ngày 04/12/2020).

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Hứa Tiến N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 31/12/2020.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về