Bản án 40/2020/HSST ngày 28/02/2020 về tội chứa mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 40/2020/HSST NGÀY 28/02/2020 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 28 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn Tu; sinh năm 1967 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: thôn C, xã M, huyện L, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hoá: 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn V và bà: Trần Thị B; có vợ và 02 con, tiền án; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ ngày 01-01-2020; chuyển tạm giam ngày 10-01-2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn Tu làm lễ tân tại nhà nghỉ H, số B đường N, phường L, thành phố N do bà Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1975, trú tại quận Long Biên, Thành phố Hà Nội làm chủ cơ sở. Khoảng 23 giờ ngày 31-12-2019, Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1978, trú tại thành phố Nam Định cùng Đặng Văn C, sinh năm 1985, trú tại huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định đến nhà nghỉ Hà A gặp Tu để thuê phòng. Tại đây, Ch và Đ đang ngồi uống nước ở phòng khách thì Đ nảy sinh ý định tìm gái bán dâm để quan hệ tình dục nên đã đặt vấn đề nhờ Tu tìm hộ gái bán dâm, Tu đồng ý. Đ quay sang rủ Ch cùng mua dâm nhưng Ch từ chối. Thấy vậy, Đ bảo Tu gọi cho mình 01 gái bán dâm và thỏa thuận giá mua bán dâm là 1.000.000 đồng/người/lượt. Do có mối quan hệ xã hội từ trước, Tu biết Phạm Thị Hu, sinh năm 1992, trú tại huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình là gái bán dâm nên Tu đã gọi điện thoại cho Hu bảo đi bán dâm với giá 1.000.000 đồng/người/lượt, Hu đồng ý. Khoảng 30 phút sau, Đ ra quầy lễ tân đưa cho Tu 1.500.000 đồng (bao gồm 1.000.000 đồng là tiền mua dâm và 500.000 đồng là tiền công trả cho Tu gọi gái bán dâm). Tu nhận tiền rồi gọi điện giục Hu đến nhà nghỉ Hà A để bán dâm cho Đ.

Khong 0 giờ 30 phút ngày 01-01-2020, Hu đến nhà nghỉ Hà A gặp Tu. Lúc này, Tu đưa cho Hu số tiền 1.000.000 đồng là tiền công bán dâm và giới thiệu Đ là khách mua dâm, rồi bảo Hu dẫn Đ lên phòng 205 để quan hệ tình dục. Còn Tu ngồi uống nước với Ch tại phòng khách của nhà nghỉ. Khoảng 0 giờ 45 phút cùng ngày, tổ công tác Đội Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Công an thành phố Nam Định kiểm tra hành chính nhà nghỉ Hà A đã phát hiện và bắt quả tang tại phòng 205 Đ và Hu đang thực hiện hành vi mua bán dâm. Tổ công tác đã thu giữ 01 bao cao su đã qua sử dụng, thu giữ của Hu: 1.000.000 đồng và 01 điện thoại Iphone màu đen đã qua sử dụng, thu giữ của Tu: 500.000 đồng và 01 điện thoại Nokia màu đen đã qua sử dụng.

Tại cơ quan điều tra, Trần Văn Tu, Nguyễn Văn Đ, Phạm Thị Hu đã khai nhận toàn bộ nội dung sự việc như đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số 23/CT-VKSTPNĐ ngày 20-01-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Trần Văn Tu về tội: “Chứa mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà: Bị cáo Trần Văn Tu khai: Bị cáo được bà Nguyễn Thị Ph giao quyền quản lý và làm lễ tân tại nhà nghỉ Hà A. Bị cáo đã có hành vi làm trung gian dẫn dắt cho Nguyễn Văn Đ và Phạm Thị Hu thực hiện việc mua dâm, bán dâm tại nhà nghỉ Hà A để hưởng lợi số tiền 500.000 đồng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 327, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo Trần Văn Tu phạm tội “Chứa mại dâm”; xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn Tu không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Khoảng 23 giờ ngày 31-12-2019, bị cáo Trần Văn Tu đã có hành vi môi giới và cho thuê phòng nghỉ tại nhà nghỉ Hà A nơi Trần Văn Tu đang làm quản lý cho Nguyễn Văn Đ và Phạm Thị Hu thực hiện hành vi mua dâm, bán dâm. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của bị cáo bị pháp luật cấm, nhưng vẫn thực hiện vì mục đích tư lợi; lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Chứa mại dâm” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, danh dự, nhân phẩm của con người. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Đối với hành vi mua, bán dâm của Phạm Thị Hu và Nguyễn Văn Đ không cấu thành tội phạm nên Công an thành phố Nam Định đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính; đối với bà Nguyễn Thị Ph, chủ nhà nghỉ Hà A đã thực hiện đầy đủ các quy định về an ninh trật tự đối với hoạt động ngành nghề kinh doanh có điều kiện, bà Phượng đã giao quyền quản lý nhà nghỉ cho Trần Văn Tu nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định không đề cập vấn đề xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: 01 vỏ bao cao su đã qua sử dụng, 01 sim điện thoại di động đều không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy; 01 điện thoại di động Nokia màu đen thu giữ của bị cáo Tu là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội, số tiền 1.500.000 đồng là do bị cáo phạm tội mà có và tiền thu từ giao dịch bất hợp pháp nên tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với chiếc điện thoại Iphone màu đen đã qua sử dụng đã thu giữ của Phạm Thị Hu, sau khi kiểm tra, Cơ quan điều tra đã trả lại cho Phạm Thị Hu là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo Trần Văn Tu phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn Tu phạm tội “Chứa mại dâm” .

Xử phạt bị cáo Trần Văn Tu 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 01-01-2020.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 vỏ bao cao su và 01 sim điện thoại; tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 1.500.000 đồng và chiếc điện thoại di động Nokia màu đen (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng).

3. Án phí: Bị cáo Trần Văn Tu phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Văn Tu được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

377
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2020/HSST ngày 28/02/2020 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:40/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về