TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 40/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 18 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 139/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24/7/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2020/QĐST- HNGĐ ngày 11/8/2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H; đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu 1, L, phường Đ, quận H, thành phố H. Nơi ở hiện nay: Số 66, đường C, phường T, quận H, thành phố H. Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn G; địa chỉ: Khu 1, L, phường Đ, quận H, thành phố H. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 01 tháng 4 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như đơn đề nghị xét xử vắng mặt nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn G kết hôn vào tháng 3 năm 2002, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện A (nay là phường Đ, quận H), thành phố H. Trong quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, H phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, hơn nữa anh G rượu chè, cờ bạc, ghen tuông vô cớ, thường xuyên tìm cách gây sự ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần của chị. Hai bên gia đình khuyên bảo, hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn ngày càng trở lên trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019, không còn quan tâm đến nhau. Nay Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên Chị vẫn giữ nguyên quan điểm khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn G.
Về con chung: Chị xác nhận vợ chồng có hai con là Nguyễn Thùy T, sinh ngày 26/10/2002 và Nguyễn Phúc L, sinh ngày 09/02/2007. Hiện tại anh G đang nuôi dưỡng hai con. Chị đồng ý nhường quyền nuôi hai con cho anh G trực tiếp nuôi dưỡng do chị chưa có chỗ ở và công việc ổn định. Việc cấp dưỡng nuôi con Chị và anh G tự thỏa thuận nên không yêu cầu giải quyết.
Về tài sản chung: Chị không yêu cầu giải quyết.
Bị đơn là anh Nguyễn Văn G đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng khác nhưng đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai anh Nguyễn Văn G vẫn không có ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật; nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án; Bị đơn đã không chấp hành quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ tài liệu điều tra có trong hồ sơ thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn G đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, áp dụng khoản 1, Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn G. Về con chung: Chị H và anh G có hai con là Nguyễn Thùy T, sinh ngày 26/10/2002 và Nguyễn Phúc L, sinh ngày 09/02/2007, hiện hai con đang do anh G trực tiếp nuôi dưỡng, vẫn ổn định về mọi mặt, nguyện vọng của hai con muốn ở với bố nên áp dụng Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình giao cho anh G được trực tiếp nuôi hai con Nguyễn Thùy T và Nguyễn Phúc L. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên kiểm sát viên không đề nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1, Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại thời điểm Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, bị đơn là anh Nguyễn Văn G vẫn đang sinh sống, cư trú tại Khu 1, L, phường Đ, quận H, thành phố H. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận H, thành phố H theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Văn G vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Quan điểm của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An tham gia phiên tòa có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, b khoản 2, Điều 227; Điều 228; điểm a,b khoản 1, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt cả nguyên đơn và bị đơn, nên Hội đồng xét xử chấp nhận là phù hợp quy định của pháp luật.
[2] Về hôn nhân: Xét chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn G kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện A (nay là phường Đ, quận H), thành phố H vào tháng 3 năm 2002. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh G là hôn nhân hợp pháp.
Qua xác minh tại địa phương, trên cơ sở ý kiến của tổ dân phố, lời khai của mẹ đẻ chị H đều có quan điểm cho rằng vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh G hay ghen tuông vô cớ, về gây sự đe dọa tinh thần chị H, vợ chồng đã ly thân từ năm 2019 và không còn quan tâm đến nhau. Mặt khác, việc anh G không đến Tòa án thể hiện thái độ không tôn trọng pháp luật của anh G, cũng như việc anh không tha thiết níu kéo H phúc gia đình. Mâu thuẫn giữa chị H và anh G đã kéo dài trầm trọng, không còn khả năng khắc phục, đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được.
Vì vậy cần chấp nhận với yêu cầu khởi kiện của chị H, cho chị H được ly hôn anh G theo các Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Vợ chồng chung sống có hai con là Nguyễn Thùy T, sinh ngày 26/10/2002 và Nguyễn Phúc L sinh ngày 09/02/2007. Hai con đều có nguyện vọng được ở cùng bố. Mặc dù anh G không có quan điểm nhưng xét nguyện vọng của hai con chung đều muốn được ở cùng bố và trên thực tế cả hai cũng đang sinh sống ổn định cùng anh G. Anh G có công việc và nơi ở ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét giao hai con Nguyễn Thùy T và Nguyễn Phúc L cho anh G trực tiếp nuôi dưỡng cũng là phù hợp. Việc cấp dưỡng nuôi con chị H không yêu cầu nên không xét.
[4] Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xét.
[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Khoản 1, Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; khoản 4, Điều 147; điểm a,b khoản 2, Điều 227; khoản 1, Điều 228; điểm a,b khoản 1, Điều 238 và khoản 1, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82; Điều 83, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
- Căn cứ Điều 3; điểm a, Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn G.
2. Về quyền nuôi con: Giao cho anh Nguyễn Văn G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con Nguyễn Thùy T, sinh ngày 26/10/2002 và Nguyễn Phúc L, sinh ngày 09/02/2007 đến khi hai con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung: Không xét giải quyết.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung: Không xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Chị H đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí Ký hiệu: AA/2016 số 0005689 ngày 04/6/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Chị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Chị H, anh G có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 40/2020/HNGĐ-ST ngày 18/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 40/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hải An - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về