Bản án 40/2020/HNGĐ-ST ngày 07/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 40/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 07/8/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 83/2020/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 01/7/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2020/QĐST-HNGĐ ngày 20/7/2020 giữa:

- Nguyên đơn: Chị Phùng Thị Th - Sinh năm: 1993 - Địa chỉ: Thôn 5, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa - Có mặt.

- Bị đơn: Anh Đinh Văn L - Sinh năm: 1986 - Địa chỉ: Thôn 2, xã B, huyện N, tỉnh Thanh Hóa - Vắng mặt (không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/4/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phùng Thị Th trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Đinh Văn L kết hôn ngày 08/12/2014, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày kết hôn vợ chồng chị chung sống hạnh phúc đến tháng 5/2017 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, quan điểm sống hoàn toàn trái ngược nhau, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Chị và anh L đã sống ly thân từ tháng 5/2017 cho đến nay, vợ chồng cắt đứt mọi quan hệ kinh tế lẫn tình cảm. Ngày 22/10/2019, chị đã nộp đơn xin ly hôn anh L lên Tòa án huyện Nga Sơn nhưng chị đã rút đơn, Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án số 42/2020/QĐST-HNGĐ ngày 06/11/2019. Từ ngày rút đơn, vợ chồng chị vẫn không giải quyết được mâu thuẫn, mà ngày càng rạn nứt. Nay chị xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu được ly hôn anh L.

Về con: Vợ chồng chị có 01 con chung là Đinh Thu Q - Sinh ngày: 19/11/2015. Hiện cháu Q đang ở với chị. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, anh L đã biết được chị Th khởi kiện xin ly hôn anh ra Tòa án nhưng anh vẫn cố tình vắng mặt, không hợp tác, không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, không nêu ý kiến của mình, nên vụ án không tiến hành hòa giải được.

Vụ án có liên quan đến người chưa thành niên nên Tòa án tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo quy định tại khoản 3 Điều 208 BLTTDS.

Tại phiên tòa hôm nay, chị Th vẫn giữ nguyên quan điểm của mình là được ly hôn với anh L, yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; bị đơn không chấp hành các quyền và nghĩa vụ theo quy định.

- Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phùng Thị Th, cho chị Phùng Thị Th được ly hôn anh Đinh Văn L. Về con: Giao cháu Đinh Thu Q - Sinh ngày: 19/11/2015 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, anh L không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về án phí: Chị Phùng Thị Th phải chịu án phí DSST về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và ý kiến của chị Phùng Thị Th, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Phùng Thị Th có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa giải quyết việc ly hôn giữa chị và anh Đinh Văn L. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện Nga Sơn.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã đến tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho anh Đinh Văn L biết việc chị Phùng Thị Th xin ly hôn anh. Nhưng trong quá trình giải quyết vụ án anh L vắng mặt nên không thống nhất được hướng giải quyết vụ án. Ngày 20/7/2020, Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử lần thứ nhất, anh L vắng mặt không có lý do nên phải hoãn phiên tòa. Như vậy, việc anh L không đến Tòa án để giải quyết vụ án là trường hợp cố tình trốn tránh, nên theo quy định điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử lần hai - vắng mặt anh L.

[2] Về hôn nhân:

Chị Phùng Thị Th và anh Đinh Văn L kết hôn ngày 08/12/2014, trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình đồng ý, không cản trở, cưới có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Anh chị sống đến tháng 5/2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân theo chị Th là do tính tình vợ chồng không hợp, quan điểm sống hoàn toàn trái ngược nhau, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, dẫn đến anh chị sống ly thân nhau từ đó cho đến nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng chị cắt đứt quan hệ kinh tế lẫn tình cảm.

Tại biên bản xác minh ngày 14/5/2020, đại diện thôn 2, xã B cho biết: Anh L và chị Th sau ngày kết hôn thì chung sống được 1 thời gian thì xảy ra mâu thuẫn, do anh chị bất đồng quan điểm sống và bất đồng giữa mẹ chồng với nàng dâu nên dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng. Chị Th cùng con về bên ngoại ở xã T từ năm 2017 cho đến nay không thấy quay lại nhà anh L nữa.

HĐXX thấy cuộc hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, cần giải quyết cho chị Th được ly hôn anh L là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về con chung:

Chị Th và anh L có 01 con chung là Đinh Thu Q - Sinh ngày: 19/11/2015. Chị Th yêu cầu được trực tiếp nuôi con. HĐXX thấy, từ khi chị Th và anh L sống ly thân nhau đến nay cháu Q ở với chị Th, mặt khác, cháu Q đang còn nhỏ và là con gái cùng giới tính với chị Th, cần sự chăm sóc của người mẹ, nên xử giao cháu Q cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật và thực tiễn.

Về mức cấp dưỡng: Chị Th không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung, nên miễn xét.

[4] Về tài sản: Chị Th không yêu cầu giải quyết, nên miễn xét.

[5] Về án phí: Chị Phùng Thị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (DSST) về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 266; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật TTDS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Phùng Thị Th, cho chị Phùng Thị Th được ly hôn anh Đinh Văn L.

2. Về con: Giao cháu Đinh Thu Q - Sinh ngày: 19/11/2015 cho chị Phùng Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng, anh L không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh L có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phùng Thị Th phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSST mà chị đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2019/0010734 ngày 28/4/2020 của Chi cục THADS huyện Nga Sơn; chị Th đã nộp đủ tiền án phí DSST.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Th có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh L có quyền kháng bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2020/HNGĐ-ST ngày 07/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:40/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về