Bản án 40/2019/HSPT ngày 25/01/2019 về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 40/2019/HSPT NGÀY 25/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 459/2018/TLPT-HS ngày 28/12/2018 đối với bị cáo Dương Văn Q + 02 BC, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 39/2018/HS-ST, ngày 22/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk. 

Bị cáo có kháng cáo: 

Họ và tên: Dương Văn Q; Sinh năm: 1976, tại huyện T, tỉnh Thái Bình; nơi ĐKNKTT: Thôn 07, xã E, huyện S, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở: Thôn 07, xã E huyện S, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Dương Văn M và con bà Nguyễn Thị H; bị cáo có vợ là Phùng Thị H, sinh năm 1979 và 04 con, con lớn nhất 23 tuổi, con nhỏ nhất 12 tuổi; tiền án; tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 26/02/2014, bị TAND huyện Ea Súp xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số 07/2014/HSST ngày 26/02/2014. Bị cáo đã chấp hành xong các quyết định của bản án.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/4/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn N; Sinh năm: 1984, tại huyện T, tỉnh Thái Bình; nơi ĐKNKTT: Buôn B, xã I, huyện S, tỉnh Đắk Lắk; chổ ở: Buôn B, xã I, huyện S, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: N; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và con bà Lê Thị S (đã chết)

Bị cáo có vợ là Đinh Thị T, sinh năm 1984 và 02 con, con lớn nhất 08 tuổi, con nhỏ nhất 04 tuổi; tiền án; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Phùng Thị H; sinh năm: 1979, tại huyện P\, tỉnh Phú Thọ; nơi ĐKNKTT: Thôn 07, xã E, huyện S, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở: Thôn 07, xã E, huyện S, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Phùng Hưng P (đã chết) và con bà Nguyễn Thị B; bị cáo có chồng là Dương Văn Q, sinh năm 1976 và 04 con, con lớn nhất 23 tuổi, con nhỏ nhất 12 tuổi. Tiền án; tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 11/4/2018, Dương Văn Q một mình đi lên thành phố buôn Ma Thuột đến trung tâm phòng chống HIV-AIDS tỉnh Đắk Lắk để uống thuốc cai nghiện. Sau đó Q có mua ma túy của người phụ nữ mà trước đây Q đã từng mua ma túy với số tiền là 500.000đ loại ma túy đá (Methamphetamine). Sau khi mua ma túy xong, Q bắt xe buýt về huyện S. Khi về đến bến xe huyện S thì bị lực lượng Công an huyện Ea Súp và lực lượng Bộ đội biên phòng tỉnh Đắk Lắk bắt quả tang, thu giữ trong người của Dương Văn Q gồm: 01 (một) gói thuốc lá màu trắng, có in chữ Jet, bên trong gói thuốc có 01 gói nhựa được hàn kín xung quanh, bên trong gói nhựa có chứa chất rắn màu trắng dạng tinh thể; số tiền 6.200.000đ; 01 điện thoại di động màu đen viền xanh; 01 con dao bằng kim loại dùng trong y tế; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Dương Văn Q tại thôn 7, xã E, huyện S. Thời điểm khám xét ở nhà Q có Nguyễn Văn N là người Q thuê đến để làm giàn phong lan. N giao nộp 01 chiếc hộp nhựa màu trắng, có nắp đậy, bên trong có 06 đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất rắn màu trắng. Khám xét tại của nhà Dương Văn Q và Phùng Thị H thu giữ 01 hộp thuốc có nắp vặn bằng thủy tinh tối màu, bên ngoài có nhãn màu trắng in chữ Sakura Placenta bên trong có chứa 45 đoạn ống hút nhựa màu trắng được hàn kín ở hai đầu, bên trong các đoạn ống nhựa có chứa chất rắn màu trắng, hộp thuốc được đặt trong sọt nhựa màu xanh ở trong phòng ngủ thứ hai; 01 túi ny lon trong suốt, bên trong có chứa chất rắn màu trắng được phát hiện ở góc giường, phía sau tủ kính quần áo; 01 điện thoại có phím bấm màu đen, phía trước có chữ Nokia; 01 cân điện tử được gói trong phong bì đặt trong phần để pin của điện thoại; 01 chiếc túi nilon màu vàng, bên trong túi nilon có 230 ống hút nhựa màu trắng (loại ống hút nước giải khát); 01 chiếc hộp nhựa trong suốt, bên trong có chứa 26 đoạn ống nhựa màu trắng, được hàn kín một đầu.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã chứng minh được: Vào khoảng 16 giờ ngày 11/4/2018 khi Dương Văn Q đi uống thuốc cai nghiện tại thành phố Buôn Ma Thuột, ở nhà chỉ có Nguyễn Văn N và Phùng Thị H (là vợ của Dương Văn Q). Lúc này N đang ngồi hàn giàn phong lan ở trên cao thì H nói với N “ chị đi xuống bà, có mấy cái đồ, em ở nhà có ai đến thì lấy giao giúp chị”, N thấy trên tay H cầm 01 hộp nhựa, giống hộp đựng thuốc tây, màu trắng, có nắp đậy. Bản thân N trước đây là người nghiện ma túy loại Heroine, nên khi nghe H nói “đồ” thì N hiểu ý của H nói với N là “có ma túy trong hộp, ai đến mua thì bán cho họ” nên N đồng ý. Sau đó H để chiếc hộp dưới chậu hoa lan gần chỗ N đang hàn, rồi H đi ra khỏi nhà. Khoảng 30 phút sau Đồng Văn N đến và đứng ngoài hàng rào hỏi N là “ anh Q đâu”, N đáp “ đi vắng”, gặp anh Q có việc gì thì N nói “ để cho em một cái”, N hiểu là N muốn mua Heroine. N đi đến vị trí để hộp nhựa, mở nắp ra lấy 01 tép Heroine từ trong hộp nhựa, đưa qua hàng rào cho N, N đưa cho N số tiền 190.000 đồng (một trăm chín mươi ngàn đồng). Sau khi N đi khỏi, khoảng 10 phút sau, có một người đàn ông đến và giới thiệu tên là Tú và hỏi mua ma túy. N lấy chiếc hộp nhựa, mở nắp hộp lấy ra 01 (một) tép Heroine trong hộp, đưa qua hàng rào cho Tú. Tú cầm tép Heroine rồi đưa cho N 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). Tổng số tiền hai lần bán ma túy là 390.000 đồng ( ba trăm chín mươi ngàn đồng) N đã nộp cho Cơ quan điều tra.

Tại bản kết luận giám định số 395/GĐMT-PC54 ngày 19/4/2018 của Phòng PC54 – Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:

- Chất thu giữ trên người của Dương Văn Q là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 2,2406gam.

- Chất trong 45 đoạn ống hút nhựa, được hàn kín ở hai đầu, được phát hiện, thu giữ khi khám xét khẩn cấp nhà của Dương Văn Q và Phùng Thị H là ma túy, loại Hêrôin, có tổng khối lượng 1,8936 gam.

- Chất trong 06 đoạn ống hút nhựa, được hàn kín ở hai đầu mà Nguyễn Văn N giao nộp là ma túy, loại Hêrôin, có tổng khối lượng 0,2113 gam.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 39/2018/HSST, ngày 22/11/2018 Tòa án nhân dân huyện Ea Súp đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Dương Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.  Bị cáo Phùng Thị H và Nguyễn Văn N phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Dương Văn Q 04 (bốn) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 11/4/2018.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phùng Thị H 09 (chín) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 07 (bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 12/4/2018.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của các bị cáo và các đương sự. 

Ngày 27/11/2018, bị cáo Phùng Thị H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 06/12/2018, các bị cáo Dương Văn Q và Nguyễn Văn N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, tại cơ quan điều tra và vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử Dương Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo Phùng Thị H và Nguyễn Văn N phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 04 năm tù đối với bị cáo Q, 07 năm tù đối với bị cáo N và 09 năm tù đối với bị cáo H mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra; do đó đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Ea Súp.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo đã khai nhận: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 11/4/2018 tại bến xe huyện S, lực lượng Công an huyện Ea Súp đã bắt quả tang Dương Văn Q tàng trữ ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 2,2406gam. Hành vi của bị cáo đã phạm vào “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Đối với Phùng Thị H và Nguyễn Văn N, sau khi bắt quả tang Dương Văn Q tàng trữ trái phép chất ma túy, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp đã ra lệnh khám xét khẩn cấp tại chỗ ở của Dương Văn Q. Qua đấu tranh khai thác và khám xét tại nhà Q còn phát hiện Phùng Thị H đã đưa cho Nguyễn Văn N một hộp nhựa màu trắng, bên trong có đựng các ống hút nhựa, được hàn kín ở hai đầu bên trong ống nhựa có chứa ma túy loại Heroine và nói N ai đến mua thì bán. N đã bán ma túy cho Đồng Văn N 01 tép ma tuy với số tiền là 190.000đ và bán cho đối tượng tên Tú 01 tép với số tiền là 200.000đ. Hành vi của Phùng Thị H và Nguyễn Văn N phạm tội mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015.

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Dương Văn Q phạm về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo Phùng Thị H và Nguyễn Văn N về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo HĐXX thấy rằng: Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực để nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật; Song do ý thức coi thường pháp luật với mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân, bị cáo Dương Văn Q đã có hành vi tàng trữ 2,2406gam, loại Methamphetamine; bị cáo Phùng Thị H với mục đích vụ lợi đã có hành vi nhờ Nguyễn Văn N bán trái phép chất ma túy loại Heroine cho nhiều người nhằm mục đích thu lợi bất chính. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, còn là nguyên nhân gián tiếp gây nên nhiều loại tội phạm khác gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm minh đối với các bị cáo, nên đơn kháng cáo của các bị cáo không có căn cứ để chấp nhận.

[2.1] Bị cáo Dương Văn Q là người có nhân thân xấu Ngày 26/02/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Ea Súp xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số: 07/2014/HSST ngày 26/02/2014. Bị cáo đã chấp hành xong các quyết định của bản án nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, do đó mức hình phạt 04 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo là tương xứng với tính chất, hành vi, hậu quả mà bị cáo gây ra.

[2.2] Đối với Phùng Thị H là người nhờ N bán ma túy cho những người nghiện, bị cáo đóng vai trò chính trong việc bán ma túy cho người khác. Ngoài số ma túy thu được khi nhờ bị cáo N bán, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp còn thu giữ trong phòng ngủ của gia đình bị cáo 45 đoạn ống nhựa được hàn kín ở hai đầu bên trong chứa là ma túy, loại Heroine, có tổng khối lượng 1,8936 gam, với mục đích cất dấu để bán. Xét mức hình phạt 09 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo là tương xứng với tính chất, hành vi, hậu quả mà bị cáo gây ra.

[2.3] Đối với Nguyễn Văn N là người trực tiếp và giúp sức cho H bán ma túy cho N và Tú, tuy không hưởng lợi về vật chất nhưng tạo điều kiện cho H bán được ma túy cho N và Tú thu lợi bất chính 390.000đ. Tại phiên tòa sơ thẩm không thành khẩn khai báo, quanh co chối tội. Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, Hội đồng xét xử cần áp dụng thêm điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 cho bị cáo tuy nhiên mức án 7 năm tù là tương xứng với tính chất, hành vi, hậu quả mà bị cáo gây ra cho nên kháng cáo của bị cáo không có căn cứ.

[3] Tòa cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 cho các bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, do đó không có căn cứ để chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo.

[4] Kiến nghị Tòa án nhân Cấp cao tại Đà Nẵng xem xét về hành vi của Dương Văn Q khi giao lại cho Phùng Thị H một hộp nhựa bên trong có các đoạn ông hút nước bên trong có chứa chất ma túy được hàn kín hai đầu. Sau đó H lại đưa hộp nhựa này cho Nguyễn Văn N, N đã lấy các ống có chứa chất ma túy trong hộp nhựa bán cho N, M và T. Hủy một phần bản án đối với bị cáo Dương Văn Q.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận đơn kháng cáo nên bị cáo N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Gia đình bị cáo Dương Văn Q và bị cáo Phùng Thị H thuộc cận hộ nghèo, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, bị cáo Dương Văn Q và Phùng Thị H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm .

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Dương Văn Q, Phùng Thị H và Nguyễn Văn N.

Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 59/2018/HSST, ngày 21/11/2018 Tòa án nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk.

[2]

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Dương Văn Q 04 (bốn) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 11/4/2018.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phùng Thị H 09 (chín) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 07 (bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 12/4/2018.

[3].Về án phí hình sự phúc thẩm:

- Nguyễn Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

- Bị cáo Dương Văn Q và bị cáo Phùng Thị H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, do gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HSPT ngày 25/01/2019 về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về