TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, PHÚ THỌ
BẢN ÁN 40/2019/ DSST NGÀY 13/11/2019 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 13 ngày 11 tháng 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 110/2019/TLST-DS ngày 02 tháng 7 năm 2019 về việc: “Kiện đòi tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1161/2019/QĐST-DS ngày 01 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:
Ngu yên đơn Anh Nguyễn Trường G - sinh năm 1994.
Địa chỉ: Khu 10, xã S, huyện L, tỉnh Phú Thọ.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn C - sinh năm 1955.
Địa chỉ: khu 1, xã V, huyện L, tỉnh Phú Thọ.
( Theo văn bản ủy quyền ngày 03/5/2019)
B ị đ ơn Công Ty Cổ Phần Pin Ắc Qui Địa chỉ: khu 1, xã C, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đ - sinh năm 1962; Chức vụ: Chủ tịch HĐQT.
(Ông Chính có mặt, ông U xin vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết tại Tòa án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Lê Văn C trình bày:
Năm 2015 anh G được tuyển dụng vào làm việc tại Công ty cổ phần Pin ắc quy . Anh được lãnh đạo công ty phổ biến chủ trương của công ty về việc huy động vốn của Cán bộ công nhân viên khi được tuyển dụng vào làm việc tại Công ty số tiền là 10.000.000đ (Mười triệu đồng) nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh của Công ty. Do đó sau khi được tuyển dụng vào làm việc tại Công ty, anh đã nộp số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) theo phiếu thu số 30 ngày 26/01/2015. Do là chủ trương của công ty nên tất cả người lao động mới được tuyển dụng đều nộp số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Vì là Cán bộ công nhân viên của Công ty nên không lập Hợp đồng vay. Chứng từ là Phiếu thu số 27 ngày 21/01/2015. Tuy nhiên do điều kiện chuyển công tác nên anh G đã bị thất lạc phiếu thu tiền nói trên.
Số tiền do Công ty huy động vốn này đã được sử dụng đúng mục đích là phục vụ sản xuất kinh doanh. Tại các bảng kê số dư chi tiết tài khoản huy động vốn tài khoản huy động vốn năm 2015,2016 do Công ty lập (ông Đào Hữu U ký) đề phản ánh số dư tiền huy động vốn mà Công ty còn nợ anh Nguyễn Trường G. Tiền lãi được tính theo lãi suất tiền gửi của Ngân hàng là 5%/năm và lãi nhập gốc.
Hiện nay anh G không còn làm việc tại Công ty cổ phần Pin ắc quy và anh G đã nhiều lần trực tiếp yêu cầu Công ty phải thanh toán số tiền huy động vốn nói trên nhưng Công ty không thanh toán. Nên anh G làm đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu Công ty cổ phần Pin ắc quy phải trả lại cho anh G tiền huy động vốn gốc là 10.000.000đ (Mười triệu đồng) và tiền lãi tính đến hết năm 2018 là 2.115.417 đồng.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Đào Hữu U có đơn xin xét xử vắng mặt nhưng tại bản tự khai ngày 16/8/2019, ông Uyên trình bày:
Trong tháng 11/2015 Công ty cổ phần Pin ắc quy V xảy ra sự cố: Bà Trần Thục B nguyên trưởng phòng tài chính kế toán, ông Lê Văn C nguyên tổng giám đốc, bà Đặng Thị Thanh H nguyên phó phòng tài chính kế toán, ông Lương Ngọc S nguyên trưởng phòng kế hoạch vật tư Công ty cổ phần Pin - Ắc Quy V bị Cơ quan an ninh điều tra - Công an tỉnh Phú Thọ khởi tố về việc “Mua bán trái phép hóa đơn”. Khi Cơ quan an ninh điều tra - Công an tỉnh Phú Thọ vào khám xét, Công ty chỉ còn lại 7.572.000đ (Bảy triệu năm trăm bảy mươi hai nghìn đồng) tiền mặt trong két; Tiền mặt trong tài khoản Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam và Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải Việt Nam chỉ còn lại tổng cộng 98.000.000đ (Chín mươi tám triệu đồng); Số công nợ (nợ ngân hàng, nợ tín dụng, nợ đối tác, nợ bảo hiểm xã hội, nợ thuế, nợ cá nhân ....) lên đến gần 58.000.000.000đ (Năm mươi tám tỷ đồng) dẫn đến Công ty rơi vào tình trạng phá sản, tài chính cạn kệt. Sau khi các ông, bà có tên trên bị khởi tố, ngày 08/12/2016 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ đã ban hành cáo trạng số 45 và chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ để xét xử đối với Trần Thục B, Lê Văn C, Đặng Thị Thanh H về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “ Mua bán trái phép hóa đơn”.
Ngày 11/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã ra bản án số 41/2017/HSST tuyên bố xử phạt:
- Trần Thục B 12 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 01 năm tù tội “ Mua bán trái phép hóa đơn”.
- Đặng Thị Thanh H 3 năm tù về tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 08 tháng tù tội “Mua bán trái phép hóa đơn”.
- Lê Văn C 28 tháng tù về tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 08 tháng tù tội “ Mua bán trái phép hóa đơn”.
Sau ngày 03/11/2015, Ban tổng giám đốc mới lên điều hành công ty trong điều kiện tình hình tài chính của công ty can kiệt, sản xuất kinh doanh gặp muôn vàn khó khăn, không có tiền mua nguyên vật liệu để sản xuất. Mặt khác ban lãnh đạo kế nhiệm không được nhận bàn giao bất kỳ một tài liệu nào từ ban lãnh đạo tiền nhiệm.
Đối với việc ông Nguyễn Trường G khởi kiện Công ty, Công ty có quan điểm như sau:
- Thứ nhất: Hiện tại Công ty cổ phần Pin Ắc quy V không có hợp đồng vay vốn nào với ông Nguyễn Trường G mà chỉ có Phiếu thu và Giấy nộp tiền có chữ ký của người nộp tiền và của Ban lãnh đạo tiền nhiệm, không được đóng dấu đỏ của công ty.
- Thứ hai: Căn cứ vào khoản 2 Điều 20 Bộ luật lao động “người sử dụng lao động không được yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền mặt hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động”.
- Thứ ba: Số tiền ông Nguyễn Trường G kiện Công ty cổ phần Pin Ắc quy V đều do ban lãnh đạo tiền nhiệm thu và chi. Ban lãnh đạo kế nhiệm không biết số tiền Ban lãnh đạo tiền nhiệm thu của ông Nguyễn Trường G đã đi về đâu? nhưng hiện nay ban lãnh đạo tiền nhiệm lại đi vận động ông Nguyễn Trường G khởi kiện công ty? Từ những lý do trên đề nghị Tòa án nhân dân thành phố V xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã chấp hành đúng theo quy định của pháp luật, đại diện theo pháp luật của bị đơn không chấp hành đúng theo quy định của pháp luật. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Trường G đối với Công ty Cổ phần Pin Ắc Quy V. Buộc Công ty Cổ phần Pin Ắc Quy V phải trả cho anh Nguyễn Trường G số tiền huy động vốn gốc là 10.000.000đ (Mười triệu đồng) và tiền lãi tạm tính đến hết năm 2018 là 2.115.417đ (Hai triệu một trăm mười lăm nghìn bốn trăm mười bảy đồng). Tổng cả gốc và lãi là: 12. 115.417đ (Mười hai triệu một trăm mười lăm nghìn bốn trăm mười bảy đồng).. Về án phí: Buộc Công ty Cổ phần Pin Ắc Quy V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Hoàn trả lại cho anh G tiền tạm ứng án phí đã nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Tranh chấp giữa anh Nguyễn Trường G và Công ty cổ phần Pin Ắc quy V là tranh chấp hợp đồng vay tài sản, là hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn có trụ sở Công ty tại xã Chu Hóa, thành phố V, tỉnh Phú Thọ nên Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ tiến hành thụ lý, giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là phù hợp.
[1.2] Thời hiệu khởi kiện và áp dụng pháp luật: Căn cứ vào Điều 429 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì anh Nguyễn Trường G khởi kiện là trong thời hiệu khởi kiện.
Do giao dịch vay tiền của các bên được thực hiện trước ngày 1/1/2017 nên căn cứ vào Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì cần áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 đề giải quyết vụ án là phù hợp.
Vụ án thuộc trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên tòa do Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ.
[1.3] Quá trình giải quyết vụ án Tßa ¸n ®· tiến hành c¸c thñ tôc tè tông theo đúng quy định của pháp luật. Đại diện theo pháp luật của bị đơn ông Đào Hữu U đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng xin vắng mặt tại phiên tòa . Căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông Uyên.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Trường G yêu cầu Công ty cổ phần Pin Ắc quy V phải trả lại cho anh G tiền huy động vốn là 10.000.000đ (Mười triệu đồng) theo Phiếu thu số 30 ngày 26/01/2015. Việc huy động theo chủ trương của Công ty cổ phần Pin ắc quy V là có thật, công ty đã ghi nhận trong các bảng kê số dư chi tiết tài khoản huy động vốn TK 3112 tại thời điểm 31/12/2015; TK 3412 tại thời điểm 31/12/2016 và trong các báo cáo tài chính từ năm 2016 đến năm 2018. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy rằng là phù hợp với các quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.
Phía bị đơn cho rằng hiện tại Công ty cổ phần Pin Ắc quy V đang lưu giữ Phiếu thu có chữ ký của Ban lãnh đạo tiền nhiệm, không được đóng dấu đỏ của công ty; căn cứ vào khoản 2 Điều 20 Bộ luật lao động “người sử dụng lao động không được yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền mặt hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động”; Số tiền bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung kiện Công ty cổ phần Pin Ắc quy V đều do ban lãnh đạo tiền nhiệm thu và chi. Ban lãnh đạo kế nhiệm không biết số tiền Ban lãnh đạo tiền nhiệm thu của anh G đã đi về đâu? nhưng hiện nay ban lãnh đạo tiền nhiệm lại đi vận động anh G khởi kiện công ty? Đối với nhưng nội dung này. Hội đồng xét xử nhận định: Ý kiến của bị đơn là không phù hợp bởi lẽ anh G chỉ là người lao động trong công ty, khi công ty có chủ trương huy động vốn thì anh cho vay, anh không cần thiết phải biết những quy tắc tài chính của công ty, khi nộp tiền thì công ty có lập phiếu thu cho anh là đủ, trong phiếu thu có thể hiện nội dung huy động vốn và phiếu thu này hiện có lưu trong hồ sơ sổ sách kế toán của công ty. Công ty cho rằng hiện công ty đang lưu giữ Phiếu thu và Giấy nộp tiền nói trên có chữ ký của người nộp tiền mà không có chữ ký của bên vay và phiếu thu, giấy nộp tiền cũng không thể hiện đóng dấu đỏ của công ty điều này càng có căn cứ thể hiện việc công ty có vay của anh G số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) còn việc trong hợp đồng không có chữ ký của bên vay và hợp đồng cũng không thể hiện đóng dấu đỏ của công ty thì đây là sai sót về nghiệp vụ quản lý và kế toán của công ty. Đối với ý kiến Công ty cho rằng số tiền anh G kiện Công ty đều do ban lãnh đạo tiền nhiệm thu và chi. Ban lãnh đạo kế nhiệm không biết số tiền Ban lãnh đạo tiền nhiệm thu của anh G đã đi về đâu. Đối với vấn đề này nếu giả sử công ty quản lý tài chính không chặt chẽ để cá nhân lợi dụng thì trước hết công ty phải có trách nhiệm đối với người đã cho công ty vay vốn sau đó mới xem xét đến trách nhiệm của người gây thiệt hại trong công ty nhưng giả thiết trên bị loại trừ vì trong bảng kê số dư chi tiết tài khoản huy động vốn TK 3112 tại thời điểm 31/12/2015 và TK 3412 tại thời điểm 31/12/2016 cũng như báo cáo tài chính cho năm tài chính kết thúc các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 mang tính pháp lý của Công ty cổ phần Pin Ắc quy V đã được công ty xác nhận đều thể hiện công ty có vay của anh G số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng). [2.2] Đối với số tiền lãi vay thấy rằng:
Đây là hợp đồng vay vốn không kỳ hạn và có lãi xuất nên căn cứ vào các quy định tại Điều 471, Điều 474, Điều 476 và 478 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì mức lãi suất hai bên thỏa thuận là 5%/năm thể hiện tại bảng kê số dư chi tiết tài khoản huy động vốn TK 3112 tại thời điểm 31/12/2015 và TK 3412 tại thời điểm 31/12/2016 do Công ty cổ phần Pin ắc quy V lập là phù hợp.
Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn yêu cầu Công ty cổ phần Pin Ắc Quy V phải trả tiền lãi với mức lãi suất là 5%/1 năm kể từ ngày lập phiếu thu số 30 ngày 26/01/2015 đến hết năm 2018 là 2.115.417đ (Hai triệu một trăm mười lăm nghìn bốn trăm mười bảy đồng). Xét thấy là phù hợp cần chấp nhận.
Như vậy, tổng cả gốc và lãi Công ty cổ phần Pin ắc quy V phải trả cho anh Nguyễn Trường G là: 12. 115.417đ (Mười hai triệu một trăm mười lăm nghìn bốn trăm mười bảy đồng).
[3] Về án phí dân sự: Công ty cổ phần Pin Ắc Quy V phải chịu án phí đối với toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận; nguyên đơn không phải chịu án phí và được hoàn trả tiền tạm ứng án phí.
[4] Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 305, Điều 471, Điều 476, Điều 477 Bộ luật dân sự năm 2005; điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Xử:
[1] Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Trường G đối với Công ty Cổ phần Pin Ắc Quy V.
[2] Buộc Công ty Cổ phần Pin Ắc Quy V phải trả cho anh Nguyễn Trường G số tiền huy động vốn gốc là 10.000.000đ (Mười triệu đồng); tiền lãi tạm tính đến hết năm 2018 là 2.115.417đ (Hai triệu một trăm mười lăm nghìn bốn trăm mười bảy đồng). Tổng cộng là 12. 115.417đ (Mười hai triệu một trăm mười lăm nghìn bốn trăm mười bảy đồng).
[3] Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và anh G có đơn yêu cầu thi hành án mà Công ty Cổ phần Pin Ắc Quy V không thi hành thì hàng tháng, Công ty Cổ phần Pin Ắc Quy V còn phải chịu khoản lãi của số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự năm 2005.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
[4] Về án phí: Buộc Công ty Cổ phần Pin Ắc Quy V phải chịu 605.770đ (Sáu trăm lẻ năm nghìn bảy trăm bảy mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả lại cho anh Nguyễn Trường G số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Phú Thọ theo biên lai số AA/2019/0000226 ngày 27/6/2019 do ông Lê Văn C nộp thay.
[5] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đại diện theo pháp luật của bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 40/2019/DSST ngày 13/11/2019 về kiện đòi tài sản
Số hiệu: | 40/2019/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 13/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về