Bản án 40/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 40/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 297/2018/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2018 về việc “ Tranh chấp ly hôn ”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2018. Theo Quyết định hoãn phiên toà số 27/2018/QĐST-HNGĐ ngày 19/11/2018 của Toà án nhân dân huyện Tam Nông. Giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Trần Thị Mỹ T,  sinh năm 1981.

Địa chỉ: ấp L, xã P, huyện T, tỉnh  Đồng Tháp.

-  Bị  đơn: Nguyễn Văn T, sinh năm 1979.

Địa chỉ: ấp L, xã  P, huyện T, tỉnh  Đồng Tháp.

Nguyên đơn chị Trần Thị Mỹ T có mặt tại phiên tòa. Bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiện toà lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 29 tháng 3 năm 2018 và các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Tam Nông, nguyên đơn chị Trần Thị Mỹ T trình bày :

1. Về hôn nhân:

Qua một thời gian tìm hiểu và được sự đồng ý của hai bên gia đình, tôi và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau vào năm 2002, chúng tôi có đăng ký  kết hôn theo luật định, giấy chứng nhận kết hôn số 140 ngày 18/10/2002 tại Uỷ ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Sau khi cưới, chúng tôi sống chung với gia đình bên chồng, cuộc sống vợ chồng rất hạnh phúc, đến đầu năm 2017 chúng tôi luôn có mâu thuẩn với nhau và chúng tôi đã sống ly thân từ đó đến nay. Nguyên nhân do chồng tôi chỉ lo chơi bời, không quan tâm lo lắng cho gia đình, cho vợ con, tôi có khuyên chồng tôi nên cố gắng làm ăn để lo cho tương lai con sau này, chồng tôi không nghe và từ đó tính tình không còn phù hợp nửa, luôn bất đồng quan điểm nên lúc nào cũng cự cải với nhau. Trong thời gian chúng tôi sống ly thân chúng tôi có gặp nhau nhưng không bàn tính việc hàn gắn lại với nhau được, hai bên gia đình cũng không giải quyết gì cho chúng tôi. Hôm nay tôi thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể tiếp tục nên yêu cầu được ly hôn.

2. Về con chung:

Chị T khai: Trong thời gian sống chung, chúng tôi có với nhau hai đứa con tên Nguyễn Thị Ngọc N, sinh ngày 02/3/2002 và Nguyễn Thành T, sinh ngày 07/8/2006. Trong thời gian chúng tôi sống ly thân và hiện nay hai con tôi sống với tôi.

3. Về tài sản chung: Không có.

4. Về  nợ chung: Chúng tôi không nợ ai và cũng không ai nợ chúng tôi.

Toà án nhân dân huyện Tam Nông tống đạt và niêm yết đầy đủ các thủ tục tố tụng cho anh Nguyễn Văn T như: Thông báo thụ lý số: 297/2018/TB-TLVA ngày 27/9/2018; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai, chứng cứ và hòa giải số: 41/TB-TA ngày 12/10/2018; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai, chứng cứ và hòa giải số: 43/TB-TA ngày 29/10/2018; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/11/2018; Quyết định hoãn phiên tòa số: 27/2018/QĐST-HNGĐ ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông nhưng anh T không có ý kiến trình bày của mình và cũng không đến Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

 [1]. Về tố tụng:

Xét yêu cầu của chị Trần Thị Mỹ T yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn T,địa chỉ  ấp L, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp căn cứ vào các Điều 28, 35 và Điều 39 của  Bộ luật tố tụng dân sự là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân  huyện Tam Nông.

- Về xét xử vắng mặt: Nguyên đơn chị Trần Thị Mỹ T có mặt tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai  không có lý do  nên Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp với Điều 227 của  Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2]. Về hôn nhân:

Quan hệ vợ chồng giữa chị Trần Thị Mỹ T và anh Nguyễn Văn T là hoàn toàn tự nguyện, trước khi kết hôn anh chị đã có thời gian tìm hiểu nhau, sau khi cưới anh chị sống cuộc sống vợ chồng rất hạnh phúc, đến đầu năm 2017 thì có mâu thuẩn và mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn, anh chị đã ly thân từ đó đến nay. Nguyên nhân, do anh T không quan tâm lo lắng cho gia đình, cho vợ con, chị T khuyên anh T không nghe, từ đó tính tình không còn phù hợp, luôn bất đồng quan điểm nên lúc nào cũng cự cải nhau. Thời gian sống ly thân đã lâu hai người không tự hàn gắn lại với nhau được, hai bên gia đình cũng không giải quyết gì cho hai người. Hôm nay chị T yêu cầu ly hôn với anh T do tình cảm không còn, cuộc sống vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Từ những căn cứ trên, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Mỹ T đối với anh Nguyễn Văn T là phù hợp.

 [3]. Về con chung:

Trước phiên toà hôm nay, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi con. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi, phải cần xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, trong thời gian sống ly thân và hiện nay hai cháu Ngọc N và Thành T sống với chị T cuộc sống ổn định, vẫn đảm bảo về tinh thần và vật chất, hơn nửa hiện cháu có nguyện vọng được sống với Mẹ sau khi Ba Mẹ ly hôn. Từ những căn cứ trên chấp nhận yêu cầu về việc nuôi con của chị Trần Thị Mỹ T đối với anh Nguyễn Văn T là phù hợp.

Tại phiên toà hôm nay chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con hàng tháng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [4]. Về tài sản chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Tại phiên tòa hôm nay anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh T vắng mặt không tham dự phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên Hội đồng xét xử căn cứ vào những chứng cứ trong hồ sơ đã thu thập được để xét xử theo quy định.

 [5]. Về án phí: Chị Trần Thị Mỹ T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 14, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điểm a, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Mỹ T đối với anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chungChấp nhận yêu cầu về việc  yêu cầu nuôi con của chị Trần Thị Mỹ T.

- Chị Trần Thị Mỹ T được tiếp tục nuôi dưỡng hai cháu Nguyễn Thị Ngọc N, sinh ngày 02/3/2002 và Nguyễn Thành T, sinh ngày 07/8/2006 (Hiện hai cháu đang sống với chị T). Anh Nguyễn Văn T không cấp dưỡng nuôi con hàng tháng (Do chị T không yêu cầu).

Anh Nguyễn Văn T được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định pháp luật không ai được ngăn cản.

Về án phí hôn nhân và gia đình:

- Chị Trần Thị Mỹ T phải nộp án phí ly hôn là 300.000 đồng nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001677, quyển số 0000034 ngày 26/9/ 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Nông.

Trường hợp bản án được Thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Báo cho nguyên đơn có mặt được biết có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Báo cho bị đơn vắng mặt được biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về ly hôn

Số hiệu:40/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về