Bản án 40/2017/HSST ngày 26/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 40/2017/HSST NGÀY 26/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/10/2017, tại hội trường Uỷ ban ban nhân dân xã Hồng Phong, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 38/2017/HSST ngày 03/10/2017 đối với bị cáo:

PHẠM VĂN K – SN 1971 tại huyện G, tỉnh Hải Dương. HKTT và nơi cư trú: Thôn A, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương

Nghề nghiệp: Lao động tự do              -            Trình độ văn hoá: 7/12

Con ông Phạm Văn V và bà Phạm Thị C Vợ là Phạm Thị H và 02 con

Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo bị bắt từ ngày 03/9/2017 đến ngày 04/9/2017 chuyển tạm giam tại trại giam Kim Chi, Công an tỉnh Hải Dương; có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị H – SN 1976; trú tại: Thôn A, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương; có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Phạm Văn K bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 09 giờ 15 phút ngày 03/9/2017, tại khu vực quốc lộ 37 thuộc địa phận thôn N, xã V, huyện N tổ công tác huyện Ninh Giang phát hiện Phạm Văn K có biểu hiện nghi vấn, nên đã tiến hành kiểm tra, thu giữ trong lòng bàn tay trái của K 03 đoạn ống nhựa, dạng ống mút màu đỏ, gắn kín hai đầu, kích thước mỗi ống 0,5cm x 01cm, bên trong chứa chất bột, dạng cục, màu trắng. K khai là heroin mục đích mua về để sử dụng. Công an huyện Ninh Giang đã tiến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ ma túy và chiếc xe moto BKS 34N3-2201.

Quá trình điều tra, Phạm Văn K khai nhận: Vào sáng ngày 03/9/2017, K điều khiển xe moto BKS 34N3-2201 đến quốc lộ 37 thuộc địa phận thôn N, xã V, huyện N mua heroin của một thanh niên không biết tên, tuổi, địa chỉ. K chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số 999/KLGĐ ngày 03/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột, dạng cục màu trắng, thu giữ của Phạm Văn K là heroin, trọng lượng 0,2603 gam.

Tại bản Cáo trạng số 39/VKS-HS ngày 02/10/2017, VKSND huyện Ninh Giang truy tố Phạm Văn K về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 BLHS.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt. Đại diện VKSND huyện Ninh Giang giữ nguyên quyết định truy tố; đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự 1999Nghị quyết số 41/2017, khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015

Xử phạt Phạm Văn K từ 12 đến 15 tháng tù; về vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước trị giá ½ chiếc xe moto BKS 34N3-2201, trả lại chị Phạm Thị H trị giá ½ chiếc xe moto. Tịch thu cho tiêu huỷ 01 phong bì dán kín niêm phong; buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với chính lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 09 giờ 15 phút ngày 03/9/2017, tại khu vực quốc lộ 37 thuộc địa phận thôn N, xã V, huyện N, Phạm Văn K có hành vi cất giấu trong người 0,2603 gam heroin, nhằm mục đích sử dụng.

Xét thấy, Phạm Văn K là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Nhận thức rõ việc cất giấu trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, đồng thời xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, Phạm Văn K phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS 1999.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện VKS huyện Ninh Giang thực hành quyền công tố đã luận tội đối với bị cáo là có cơ sở, đúng pháp luật.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 thì mức hình phạt tại khoản 1 đối với loại tội này nhẹ hơn so với khoản 1 Điều 194 BLHS 1999. Căn cứ hướng dẫn tại Nghị quyết số 41 của Quốc Hội, khoản 3 Điều 7 BLHS 2015, HĐXX sẽ xem xét áp dụng các quy định có lợi cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Đánh giá về nhân thân bị cáo thì thấy: Tại bản án số 22 ngày 15/4/1990, TAND huyện Tứ Lộc, tỉnh Hải Hưng xử phạt bị cáo 24 tháng tù cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản XHCN. Mặc dù đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đây là bài học rút kinh nghiệm cho bản thân, vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải có biện pháp xử lý nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phục vụ công tác phòng chống tội phạm.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, Phạm Văn K đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. HĐXX sẽ cân nhắc, áp dụng để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Do Phạm Văn K không có thu nhập ổn định, nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Gồm 01 phong bì dán kín niêm phong, bên trong chứa heroin, cần phải tịch thu cho tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy BKS 34N3-2201 là tài sản chung của Phạm Văn K và chị Phạm Thị H (vợ bị cáo). Xét thấy, việc K sử dụng chiếc xe này vào việc phạm tội, chị H không biết, nên cần tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước trị giá ½ chiếc xe và trả lại chị Phạm Thị H trị giá ½ chiếc xe máy.

Trong vụ án này, Phạm Văn K khai mua ma túy của một thanh niên không quen biết tên, tuổi, địa chỉ tại địa phận thôn N, xã V, huyện N, nên không có căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự.

Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 BLHS 1999; Nghị quyết 41 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 BLHS 2015.

Xử phạt Phạm Văn K 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tính từ ngày 03 tháng 9 năm 2017

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 41 BLHS, điểm a – đ khoản 2 Điều 76 BLTTHS

Tịch thu cho tiêu huỷ 01 phong bì dán kín niêm phong.

Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước trị giá ½ chiếc xe moto BKS 34N3- 2201 trả lại chị Phạm Thị H trị giá ½ chiếc xe moto.

Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ninh Giang và Chi cục thi hành án dân sự huyện Ninh Giang.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của BLTTHS và Nghị quyết 326/2016 của UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc Phạm Văn K phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 231 và Điều 234 BLTTHS

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo nội dung có liên quan trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2017/HSST ngày 26/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:40/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Giang - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về