TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 40/2017/HSST NGÀY 23/06/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 19 và ngày 23 tháng 6 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 37/2017/HSST ngày 26 tháng 5 năm 2017 đối với các bị cáo:
1. Lý Văn T, sinh ngày 20/8/1988
Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn R, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Nùng; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 9/12; con ông: Lý Văn P, sinh năm 1962 và con bà: Nguyễn Thị Lượng, sinh năm 1960; anh chị em ruột: Có 05 người, bị cáo là thứ ba; vợ: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện H từ ngày 19/12/2016 đến ngày 25/01/2017 thì được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Có mặt.
2. Linh Thị H, sinh ngày 11 tháng 11 năm 1984.
Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn Đ, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Nùng; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông: Linh Văn Chắp, sinh năm 1949 và con bà: Nông Thị Sửu, sinh năm 1949; anh chị em ruột: Có 08 người, bị cáo là thứ sáu; chồng: Trần Đức Thỏa, sinh năm 1981 (đã ly hôn); con: Có 1 con, sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không có.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện H từ ngày 19/12/2016 đến ngày 25/01/2017 thì được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Có mặt.
3. Vương Xuân T, sinh ngày 02/4/1986
Nơi ĐKHKTT: Số nhà 103, đường H, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Tập thể Công ty TNHH Thịnh An Bình, thôn B, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; con ông Vương Quốc Hùng, sinh năm 1958 và con bà Trần Thị Thanh, sinh năm 1960; anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là thứ nhất; vợ: Triều Thị Hương, sinh năm 1987; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không có.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện H từ ngày 08/01/2017 đến ngày 11/01/2017 thì được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Võ Thị Kim C, sinh năm 1975
Địa chỉ: Thôn Q, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt không có lý do.
2. Ông Lý Văn P, sinh năm 1962
Địa chỉ: Thôn R, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
NHẬN THẤY
Tại bản cáo trạng số 40/VKS-HS ngày 24/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn truy tố các bị cáo Lý Văn T, Linh Thị H, Vương Xuân T về hành vi phạm tội như sau:
Hồi 17 giờ 15 phút ngày 19 tháng 12 năm 2016, Công an huyện H nhận được tin báo của quần chúng Nhân dân, nội dung tại quán bán hàng của Linh Thị H, Linh Thị H sử dụng điện thoại di động nhắn tin đánh bạc bằng hình thức ghi lô, đề trái phép. Hồi 18 giờ 30 phút cùng ngày, khi lực lượng Công an đến kiểm tra, Linh Thị H đang có mặt tại quán bán hàng, trên tay cầm một mảnh bìa giấy cứng, một mặt mầu vàng có in chữ “Thăng Long”, một mặt có ghi nhiều số tự nhiên bằng mực mầu đen; 02 chiếc điện thoại di động trong đó 01 chiếc nhãn hiệu NOKIA 215 màu đen, trong máy lắp sim số 01248900262; 01 chiếc nhãn hiệu iPhone mầu trắng, màn hình bị nứt vỡ, trong máy lắp sim số 0964668802.
Linh Thị H khai nhận mảnh bìa giấy cứng có các số tự nhiên là các số lô, đề được H ghi vào bìa vỏ hộp đựng bao thuốc lá Thăng Long, chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 215 màu đen có lắp sim số 01248900262 của H dùng để nhắn tin đánh bạc bằng hình thức đánh lô đề với người khác, chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iPhone màu trắng, màn hình bị nứt vỡ, lắp sim số 0964668802 H dùng để liên lạc hàng ngày. Ngoài ra, Linh Thị H còn giao nộp 01 chiếc bút mực màu đen và số tiền 7.170.000 đồng.
Tiến hành kiểm tra nội dung tin nhắn trong chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA 215 của Linh Thị H phát hiện trong khoảng thời gian từ 15 giờ 44 phút đến 17 giờ 49 phút ngày 19 tháng 12 năm 2016 có 09 tin nhắn được gửi tới số 01699664045, lưu tên là “Trg2” có nội dung gồm nhiều số tự nhiên trùng với các số được ghi trên tờ bìa vỏ hộp đựng bao thuốc lá Thăng Long thu giữ của H.
Linh Thị H khai nhận 09 tin nhắn của H gửi tới số 01699664045 là các tin nhắn ghi các số lô, đề của H gửi cho Lý Văn T, sinh năm 1988, trú tại thôn R, xã H, huyện H để đánh bạc với T.
Cơ quan điều tra đã ra lệnh bắt khẩn cấp đối với Linh Thị H và Lý Văn T. Quá trình bắt giữ T, cơ quan điều tra phát hiện và thu giữ: 02 chiếc điện thoại di động gồm một chiếc nhãn hiệu iPhone SE, màu trắng số IMEI 355439071898754, trong máy lắp sim số 0988210741; một chiếc nhãn hiệu iPhone, màu trắng số IMEI 358809058582950, trong máy có lắp sim số 01699664045; một xe ô tô nhãn hiệu KIA Rio, màu trắng biển kiểm soát 12A-06325 và số tiền 38.720.000 đồng.
Quá trình điều tra làm rõ: Khoảng giữa tháng 10 năm 2016, Lý Văn T nảy sinh ý định đánh bạc bằng hình thức lô, đề nên đã gặp Linh Thị H và nói nếu có người có nhu cầu đánh bạc bằng hình thức lô, đề thì H nhận sau đó chuyển cho T để hưởng hoa hồng, H nhất trí.
Hồi 14 giờ 16 phút ngày 19 tháng 12 năm 2016, Linh Thị H đang ở quán thì nhận được tin nhắn từ số điện thoại 01235198310 của Vương Xuân T là công nhân công ty TNHH Thịnh An Bình ở thôn B, xã C, huyện H nhắn tin đến số 01248900262 của H đánh bạc các số lô: 47, 74 mỗi số 200 điểm; 04 là 100 điểm; các số đề 47, 74 mỗi số 100.000 đồng; các số ba càng 947, 974 mỗi số 100.000 đồng. Sau khi nhận được tin nhắn của Vương Xuân T, Linh Thị H ghi lại các số lô, đề ra mảnh bìa giấy loại vỏ hộp đựng bao thuốc lá Thăng Long rồi nhắn tin chuyển toàn bộ các số lô, đề trên cho Lý Văn T. Ngoài ra, bản thân H cũng được nhắn tin đánh bạc với Lý Văn T các số: Số lô xiên hai 41 - 69 là 10 điểm; 17 số lô gồm: 04 là 185 điểm, 68 là 200 điểm, 87 là 100 điểm, 45 là 70 điểm, 12 là 50 điểm, 24 là 25 điểm, 35 là 20 điểm, 71, 56 mỗi số 15 điểm, các số 74, 78, 89, 98, 55, 77, 33, 10 mỗi số 10 điểm; 05 số đề gồm: 12 là 200.000 đồng, 35 là 90.000 đồng, 26, 42, 41 mỗi số 20.000 đồng.
17 giờ 54 phút, ngày 19 tháng 12 năm 2017, Lý Văn T nhắn tin lại cho Linh Thị H xác nhận đã nhận được các số lô, đề từ H chuyển đến cho T để đánh bạc. Đến 18 giờ 30 phút, sau khi có kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng ngày 19 tháng 12 năm 2016 thì Linh Thị H bị phát hiện và bắt giữ, sau đó Lý Văn T bị bắt. Ngày 08 tháng 01 năm 2017, Vương Xuân T đến Công an huyện H đầu thú về hành vi phạm tội của mình và giao nộp một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone 6 màu trắng, số IMEI 354390065856988 lắp sim số 01235198310 của T dùng để nhắn tin đánh bạc với Linh Thị H.
Các bị cáo đánh bạc với các hình thức như sau:
Đánh bạc hình thức “đề” là người đánh bạc đặt cược vào các cặp số tự nhiên có 02 chữ số, nếu số đã cược trùng với hai số cuối của giải Đặc biệt là thắng với tỷ lệ 1 được 70 lần; ngược lại là thua và mất toàn bộ số tiền đã cược.
Đánh bạc hình thức “ba càng” là người đánh bạc đặt cược vào các số tự nhiên có 03 chữ số, nếu số đã cược trùng với ba số cuối của giải Đặc biệt là thắng với tỷ lệ 1 được 400 lần; ngược lại là thua và mất toàn bộ số tiền đã cược.
Đánh bạc hình thức “lô” là người đánh bạc đặt cược vào các cặp số tự nhiên có 02 chữ số, nếu số đã cược trùng với hai số cuối của bất kỳ giải nào trong 27 giải xổ số kiến thiết miền Bắc từ giải Bảy đến giải Đặc biệt là thắng. Lô được tính theo “điểm”, 1 “điểm” tương đương 23.000 đồng, nếu thắng người đánh bạc sẽ được hưởng tỷ lệ 1 điểm được 80.000 đồng; nếu số đã cược xuất hiện từ hai lần trở lên ở tất cả các giải thì số tiền thắng tăng lên tương ứng với số lần xuất hiện; nếu không có số trùng là thua, người đánh bạc sẽ mất toàn bộ số tiền đã cược.
Đánh bạc hình thức “lô xiên 2” là người đánh bạc đặt cược vào hai cặp số tự nhiên có 02 chữ số. Nếu các số đặt cược trùng với hai số cuối của hai giải bất kỳ giải nào trong các giải xổ số kiến thiết miền Bắc từ giải Bảy đến giải Đặc biệt là thắng. Lô xiên hai cũng được tính theo “điểm”, 1 “điểm” tương đương 10.000 đồng, nếu thắng người đánh bạc sẽ được hưởng tỷ lệ 1 điểm được 100.000 đồng. Ngược lại là thua và mất toàn bộ số tiền đã cược.
Những người đánh bạc lô, đề với H phải trả tiền theo mức: Một điểm lô là 23.000 đồng, một điểm lô xiên hai là 10.000 đồng, đánh số đề và số ba càng thì trả đúng bằng giá trị thực của số tiền đặt cược. Khi chuyển số tiền đánh bạc cho Lý Văn T thì H được hưởng hoa hồng, thanh toán với T như sau: Một điểm lô là 22.000 đồng, một điểm lô xiên hai là 8.000 đồng và chỉ phải trả 75% của tổng số tiền đánh các số đề và số ba càng. Việc đánh bạc lô, đề phải thực hiện trước 18 giờ hàng ngày và chưa phải thanh toán tiền ngay, căn cứ vào kết quả xổ số miền Bắc mở thưởng cùng ngày để xác định thắng, thua sau đó thanh toán tiền cho nhau.
Số tiền Vương Xuân T đánh bạc với Linh Thị H ngày 19 tháng 12 năm 2016 bằng các số lô, đề là 11.900.000 đồng. Căn cứ kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng ngày 19 tháng 12 năm 2016 làm rõ Vương Xuân T đã trúng một số lô 74 là 200 điểm được 16.000.000 đồng.
Số tiền Linh Thị H chuyển và ghi số lô, đề đánh bạc với Lý Văn T là 28.550.000 đồng, trúng các số lô 74 là 210 điểm được 16.800.000 đồng, 71 là 15 điểm trùng với hai kết quả của giải sáu được 2.400.000 đồng, 55 là 10 điểm được 800.000 đồng, tổng số tiền trúng là 20.000.000 đồng.
Số tiền trên các bị cáo đánh bạc và thắng bạc chưa thanh toán cho nhau.
Số tiền hoa hồng Linh Thị H được hưởng từ việc chuyển các số lô, đề của Vương Xuân T đánh bạc với mình cho Lý Văn T là 600.000 đồng, số tiền này H chưa được nhận.
Ngoài ra, ngày 17 tháng 12 năm 2017, Võ Thị Kim C, sinh năm 1975, trú tại thôn C, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn có được đánh bạc với Lý Văn T một số đề 77 với số tiền 90.000 đồng, nhưng không trúng, số tiền này C chưa thanh toán cho T.
Linh Thị H và Lý Văn T khai nhận trước đó đã tham gia đánh bạc hình thức lô, đề nhiều lần tuy nhiên sau khi có kết quả trúng thưởng đã xóa hết những tin nhắn, bản thân các bị cáo không nhớ được những người đã tham gia đánh bạc với mình và số tiền có được từ việc đánh bạc là bao nhiêu do đã sử dụng hết nên không có cơ sở mở rộng điều tra làm rõ.
Đối với Võ Thị Kim C có hành vi đánh bạc với Lý Văn T, số tiền sử dụng đánh bạc là 90.000đ, bản thân chưa có tiền án, tiền sự, do đó không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Công an huyện H, tỉnh Lạng Sơn đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Võ Thị Kim C.
Về vật chứng của vụ án:
Đối với các vật chứng thu giữ đã làm rõ được liên quan đến việc phạm tội của các bị cáo gồm có: Một mảnh bìa giấy vỏ hộp đựng bao thuốc lá Thăng Long, một mặt có ghi nhiều số tự nhiên; một chiếc bút mực màu đen; 03 chiếc điện thoại di động trong đó một chiếc nhãn hiệu NOKIA 215 màu đen của Linh Thị H, một chiếc nhãn hiệu iphone màu trắng của Lý Văn T và một chiếc nhãn hiệu iphone 6 màu trắng của Vương Xuân T được các bị cáo sử dụng làm công cụ thực hiện hành vi đánh bạc.
Những tài sản, đồ vật không liên quan việc phạm tội gồm: 02 chiếc điện thoại di động, trong đó: 01 chiếc nhãn hiệu iphone màu trắng, màn hình bị nứt vỡ của Linh Thị H, 01 chiếc nhãn hiệu iphone SE màu trắng của Lý Văn T sử dụng liên lạc hàng ngày và số tiền 7.170.000đ là tiền Linh Thị H bán hàng có được; 01 chiếc xe ô tô biển kiểm soát 12A-063.25, nhãn hiệu KIA Rio, màu trắng là tài sản của ông Lý Văn P là bố đẻ của Lý Văn T mua với hình thức trả góp, cho T đứng tên đăng ký xe, được sử dụng phục vụ sinh hoạt của gia đình và chở khách; số tiền 38.720.000đ là của ông Lý Văn P đưa cho T vào sáng ngày 19/12/2016 đi trả tiền đã vay Ngân hàng, tiền này T cũng không sử dụng vào việc đánh bạc.
Sau khi làm rõ, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã trả lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 12A-063.25 cho chủ sở hữu là ông Lý Văn P.
Đối với chiếc điện thoại di động Võ Thị Kim C sử dụng để nhắn tin đánh bạc với Lý Văn T, C đã làm mất nên không truy thu được.
Tại phiên tòa: Các bị cáo Lý Văn T, Linh Thị H, Vương Xuân T giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.
Kiểm sát viên giữ quyền công tố, sau khi phân tích, đánh giá các căn cứ buộc tội và đánh giá về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vẫn giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị:
Về tội danh: Tuyên các bị cáo Lý Văn T, Linh Thị H, Vương Xuân T phạm tội “Đánh bạc”.
Về hình phạt:
1. Lý Văn T: Áp dụng khoản 1 Điều 248; Điểm p khoản 1, 2 Điều 46; Các Điều 20, 45, 53 và Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm.
Phạt bổ sung từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ
2. Linh Thị H: Áp dụng khoản 1 Điều 248; Điểm h, p khoản 1 Điều 46; Các Điều 20, 45, 53, 60 Bộ luật hình sự 1999 và điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 04 năm đến 05 năm.
Phạt bổ sung từ 15.000.000đ đến 20.000.000đ
3. Vương Xuân T: Áp dụng khoản 1 Điều 248; Điểm h, p khoản 1, 2 Điều 46; các Điều 20, 45, 53 và Điều 60 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng.
Phạt bổ sung từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ
Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a, b, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh bìa giấy vỏ hộp đựng bao thuốc lá Thăng Long; 01 bút mực màu đen.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 03 chiếc điện thoại di động trong đó 01 chiếc nhãn hiệu NOKIA 215 màu đen của Linh Thị H, 01 chiếc nhãn hiệu iphone màu trắng của Lý Văn T, 01 chiếc nhãn hiệu iphone 6 màu trắng của Vương Xuân T; số tiền 90.000đ của Võ Thị Kim C giao nộp; số tiền 1.000.000đ do bị cáo Lý Văn T giao nộp tại Cục thi hành án dân sự huyện H.
Trả lại tài sản không liên quan đến việc phạm tội: Trả cho bị cáo Linh Thị H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone màu trắng, màn hình bị nứt vỡ và số tiền 7.170.000đ; bị cáo Lý Văn T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone SE màu trắng và trả cho ông Lý Văn P số tiền 38.720.000đ.
Xác nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã trả chiếc xe ô tô biển kiểm soát 12A-06325 cho chủ sở hữu là ông Lý Văn P.
Tại phần tranh luận: Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến tranh luận gì.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa hôm nay lời khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo Lý Văn T, Linh Thị H, Vương Xuân T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Như vậy, bản cáo trạng truy tố các bị cáo Lý Văn T, Linh Thị H, Vương Xuân T phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ hành vi đó đang là một trong những tệ nạn xã hội phức tạp, bị xã hội lên án, cần phải bài trừ, đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây bất bình trong dư luận xã hội. Các bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được đánh bạc là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền để tiêu xài cá nhân nên đã tham gia đánh bạc bằng hình thức lô, đề và hơn hết là vì mục đích hám lợi nên các bị cáo phải chịu một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Đây là vụ án đồng phạm, để cá thể hóa hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, hành vi phạm tội nêu trên thì cũng phải xem xét đến vai trò của từng bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt:
Xét về vai trò của các bị cáo:
Hành vi đánh bạc của các bị cáo không có sự bàn bạc, tổ chức. Tuy nhiên, khi Lý Văn T là chủ đề và khi gặp Linh Thị H tại quán Lý Văn T đặt vấn đề với Linh Thị H sẽ ghi các số lô, đề của người khác sau đó chuyển cho Lý Văn T để hưởng hoa hồng. Do vậy, bị cáo Lý Văn T là người giữ vai trò chính trong vụ án.
Đối với bị cáo Linh Thị H và Vương Xuân T là người trực tiếp đánh các số lô, đề với mục đích kiếm lời, ngoài ra bị cáo Linh Thị H còn trực tiếp ghi các số lô, đề với Vương Xuân T và người khác rồi chuyển cho Lý Văn T để được hưởng hoa hồng, do đó bị cáo Linh Thị H có vai trò quan trọng hơn bị cáo Vương Xuân T.
Về nhân thân: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nên có nhân thân tốt. Đối với bị cáo Lý Văn T năm 2008 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn xét xử về tội đánh bạc, bị cáo đã chấp hành xong bản án và đã được xóa án tích.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Lý Văn T, Linh Thị H, Vương Xuân T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Lý Văn T, Linh Thị H, Vương Xuân T đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; bị cáo Linh Thị H, Vương Xuân T phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; đối với bị cáo Linh Thị H có bố là ông Linh Văn Chắp được Nhà nước thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 144/2016/QH13, ngày 29/6/2016 của Quốc hội về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự số 100/2015; Công văn số 276/TANDTC-PC, ngày 13/9/2016 của Tòa án nhân dân Tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015; Công văn 301/TANDTC-PC, ngày 07/01/2015 của Tòa án nhân dân Tối cao về việc áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 thì bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015; bị cáo Vương Xuân T sau khi phạm tội đã đến Công an huyện H đầu thú, bị cáo Lý Văn T đã tự nguyện nộp một khoản tiền sử dụng đánh bạc tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Lạng Sơn, do vậy bị cáo Lý Văn T, Vương Xuân T được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 bộ luật hình sự.
Từ những phân tích trên khi lượng hình cần quyết định một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo, bảo đảm tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, nhưng cũng cần xem xét đến nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ để giảm nhẹ phần nào về hình phạt đối với các bị cáo để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước.
Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do các bị cáo thực hiện và áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo và áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên, xét về mức hình phạt và mức phạt bổ sung mà Viện kiểm sát đề nghị là quá cao so với hành vi và điều kiện, hoàn cảnh gia đình của các bị cáo, nên Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt, cũng như về mức hình phạt bổ sung thấp hơn so với mức đề nghị.
Bị cáo Lý Văn T, Linh Thị H, Vương Xuân T chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng; quá trình điều tra, xét xử chấp hành đúng theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự. Xét thấy, nếu cho các bị cáo được hưởng án treo cũng không gây nguy hại cho xã hội, vẫn đảm bảo được sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời thể hiện được sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước đối với những người biết ăn năn hối cải để sửa chữa sai lầm, không cần thiết bắt các bị cáo cách ly khỏi xã hội cũng đủ răn đe, giáo dục các bị cáo.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, qua xác minh và làm rõ tại phiên tòa, gia đình các bị cáo có tài sản thu nhập. Nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về vật chứng vụ án:
Cần tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh giấy vỏ hộp đựng bao thuốc lá Thăng Long; 01 bút mực màu đen.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước tài sản liên quan đến việc phạm tội: 03 chiếc điện thoại di động trong đó 01 chiếc nhãn hiệu NOKIA 215 màu đen của Linh Thị H, 01 chiếc nhãn hiệu iphone màu trắng của Lý Văn T, 01 chiếc nhãn hiệu iphone 6 màu trắng của Vương Xuân T; số tiền 90.000đ của Võ Thị Kim C giao nộp; số tiền 1.000.000đ do bị cáo Lý Văn T giao nộp tai Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Lạng Sơn.
Trả lại tài sản không liên quan đến việc phạm tội: Trả cho bị cáo Linh Thị H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone màu trắng và số tiền 7.170.000đ; bị cáo Lý Văn T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone SE màu trắng và trả cho ông Lý Văn P số tiền 38.720.000đ.
Xác nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã trả chiếc xe ô tô biển kiểm soát 12A-06325 cho chủ sở hữu là ông Lý Văn P.
Đối với số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc, bị cáo Vương Xuân T 27.900.000đ; bị cáo Lý Văn T và Linh Thị H số tiền 48.550.000đ, tuy nhiên số tiền này các bị cáo chưa thanh toán cho nhau, các bị cáo chỉ ghi nhận trên các tin nhắn trong điện thoại với nhau. Do vậy, căn cứ vào Điều 41 Bộ luật hình sự và khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP, ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng các Điều 248, 249 Bộ luật hình sự là không đủ cơ sở truy thu số tiền trên của các bị cáo.
Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Lý Văn T, Linh Thị H, Vương Xuân T phạm tội “Đánh bạc”.
2. Về hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 248; Điểm p khoản 1, 2 Điều 46; Các Điều 45, 53 và Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lý Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 (Ba) năm.
Giao bị cáo Lý Văn T cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện H giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Phạt bổ sung phạt tiền 7.000.000đ (Bảy triệu đồng) để sung công quỹ Nhà nước.
Áp dụng khoản 1 Điều 248; Điểm h, p khoản 1 Điều 46; các Điều 45, 53, 60 Bộ luật hình sự 2009 và điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Linh Thị H 01 (Một) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (Hai) năm.
Giao bị cáo Linh Thị H cho Ủy ban nhân dân xã C, huyện H giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Phạt bổ sung phạt tiền 5.000.000đ (Năm triệu) để sung công quỹ Nhà nước.
Áp dụng khoản 1 Điều 248; Điểm h, p khoản 1, 2 Điều 46; Các Điều 45, 53 và Điều 60 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vương Xuân T 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng.
Giao bị cáo Vương Xuân T cho Ủy ban nhân dân phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Phạt bổ sung phạt tiền 4.000.000đ (Bốn triệu) để sung công quỹ Nhà nước.
3. Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c, đ khoản 1 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Cần tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh giấy vỏ hộp đựng bao thuốc lá Thăng Long; 01 bút mực màu đen.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 03 chiếc điện thoại di động trong đó 01 chiếc nhãn hiệu NOKIA 215 màu đen số seri 1: 71162941 của Linh Thị H, 01 chiếc nhãn hiệu iphone màu trắng số IMEI 358809058582950, của Lý Văn T, 01 chiếc nhãn hiệu iphone 6 màu trắng của Vương Xuân T; số tiền 90.000đ của Võ Thị Kim C giao nộp; số tiền 1.000.000đ do bị cáo Lý Văn T giao nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Lạng Sơn.
Trả lại tài sản không liên quan đến việc phạm tội: Trả cho bị cáo Linh Thị H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone màu trắng, số IMEI: 358757052564302 và số tiền 7.170.000đ (Bảy triệu một trăm bảy mươi nghìn đồng); bị cáo Lý Văn T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone SE màu trắng, số IMEI 355439071898754 và trả cho ông Lý Văn P số tiền 38.720.000đ (Ba mươi tám triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng).
Xác nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã trả chiếc xe ô tô biển kiểm soát 12A-06325 cho chủ sở hữu là ông Lý Văn P.
(Vật chứng trên hiện được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/5/2017; giấy Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử lập ngày 30/5/2017 và biên lai thu tiền của Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Lạng Sơn).
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc các bị cáo Lý Văn T, Linh Thị H, Vương Xuân T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Võ Thị Kim C vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhân được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 40/2017/HSST ngày 23/06/2017 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 40/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/06/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về