Bản án 398/2020/HS-ST ngày 17/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 398/2020/HS-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2020 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 385/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 9 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 394/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Đắc H, sinh năm 1991 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm N, xã Ngh H, huyện T K, tỉnh Nghệ An; chỗ ở: Số 59/27/18D khu phố T B, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Đắc H, sinh năm 1950 và bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1952; bị cáo có 02 anh ruột, sinh năm 1974, nhỏ sinh năm 1975; bị cáo có vợ tên là Trần Thị Tr, sinh năm 1996, có 01 con ruột, sinh năm 2015; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 28/02/2019, bị Tòa án nhân dân thị xã D A (nay là thành phố D A), tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 12/3/2020; Nhân thân:

- Ngày 28/8/2014, bị Tòa án nhân dân huyện T K, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2014/HSST.

- Ngày 25/12/2014, bị Tòa án nhân dân huyện T K, tỉnh Nghệ An xử phạt 02 năm về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2014/HSST.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/6/2020 cho đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Trần Đại Thành Đ, sinh năm 2000; thường trú: Thôn L Th, xã A Th, huyện L Th, tỉnh Quảng Bình; chỗ ở: Số BB, đường số T, khu phố Th Nh 1, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; có mặt.

*Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Anh Lê Đắc S, sinh năm 1993; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Thanh H1, sinh năm 1985; vắng mặt.

3. Anh Thái Hoàng Ph, sinh năm 1988; vắng mặt.

4. Anh Phan Tấn T, sinh năm 1994; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 20/6/2020, Lê Đắc H đang ngồi tại quán nước gần Siêu thị Big C thuộc khu phố T B, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương thì gặp H và H2 (không rõ nhân thân, lai lịch) nên cả ba ngồi uống nước nói chuyện, trong lúc ngồi nói chuyện thì H rủ H1 và H2 cùng nhau đi tìm xe mô tô lấy trộm bán lấy tiền tiêu xài.

Sau đó, H điều khiển xe mô tô (không rõ biển số xe) chở H1, còn H2 điều khiển xe mô tô (không rõ biển số xe) đi một mình đi lòng vòng các tuyến đường trên địa bàn thành phố D A, tỉnh Bình Dương để tìm xe mô tô lấy trộm. Đến khoảng 20 giờ 10 phút cùng ngày, khi cả nhóm đến gần quán nước mía trên đường số T, khu phố Th Nh 1, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương thì H2 phát hiện anh Trần Đại Thành Đ đang ngồi uống nước, phía trước ngay sát lề đường anh Đ dựng chiếc xe mô tô kiểu dáng Winner X màu xanh – đen – bạc, biển số 73H1 – 457.61 nên H2 bấm còi ra hiệu cho H và H1 biết để lấy xe. Lúc này, H2 liền chạy xe vòng lại, dừng xe cách anh Đ khoảng 05 mét rồi giả vờ kêu anh Đ tới hỏi đường, còn H1 chở H2 dừng xe vào lề đường cách vị trí xe mô tô trên khoảng 05 mét rồi đưa xe mô tô của H2 cho H, còn Hào đi bộ đến nơi để xe của anh Đ, lợi dụng lúc H2 đang giả vờ hỏi đường anh Đ thì H2 lén lút dùng đoản bẻ ổ khóa, lấy xe mô tô Winner X màu xanh – đen – bạc, biển số 73H1 – 457.61 của anh Đ và điều khiển xe bỏ chạy. Sau khi chiếm đoạt được xe của anh Đ, H1, H và H2 chạy đến đoạn đường số ML thuộc khu phố Nh Đ 1, phường D A thì H đổi xe Winner X màu xanh – đen – bạc biển số 73H1 – 457.61 cho H chạy, H vừa điều khiển xe chạy được khoảng 50 mét thì bị Công an phường Dĩ An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương phối hợp với anh Thái Hoàng Ph, anh Phan Tấn T và anh Nguyễn Thanh H là thành viên câu lạc bộ phòng chống tội phạm phường T B trên đường đi kiểm tra thấy nghi vấn nên mời H về Công an phường D An làm việc. Quá trình làm việc H đã tự khai nhận toàn bộ hành vi phạm phạm tội của mình.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) xe Winner X màu xanh – đen – bạc, biển số 73H1 – 457.61, số khung: KC34B1053095, số máy: 3715KY026095.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số: 130/BB.ĐG ngày 10/8/2020 của Hội đồng định giá thành phố Dĩ An, xác định: 01 (một) xe Winner X màu xanh – đen – bạc, biển số 73H1 – 457.61 có trị giá 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận định giá tài sản số: 130/BB.ĐG ngày 10/8/2020 của Hội đồng định giá thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Đối với hành vi đồng phạm của đối tượng H1 và H2, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Tại cáo trạng số: 416/CT – VKS ngày 03 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Đắc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Đắc H mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

* Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) xe Winner X màu xanh – đen – bạc, biển số 73H1 – 457.61, hiện thu hồi trả lại cho bị hại Trần Đại Thành Đạt, ông Đạt không yêu cầu gì khác nên không đặt ra xem xét.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Đắc H không tranh luận, đối đáp gì, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 20 giờ 10 phút ngày 10/6/2020 tại trước quán nước mía trên đường số T, khu phố Th Nh 1, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Lê Đắc H lén lút chiếm đoạt 01 (một) xe Winner X màu xanh – đen – bạc, biển số 73H1 – 457.61 của anh Trần Đại Thành Đ có trị giá 35.000.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số: 416/CT – VKS ngày 03 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, thể hiện bị cáo có tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa, không có nghề nghiệp ổn định. Tuy nhiên bị cáo đang nuôi con nhỏ nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo là người có nhân thân xấu, có tiền án chưa được xóa, hành vi phạm tội của bị cáo ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) xe Winner X màu xanh – đen – bạc, biển số 73H1 – 457.61, hiện thu hồi trả lại cho bị hại Trần Đại Thành Đ, ông Đ không yêu cầu gì khác nên không đặt ra xem xét.

[9] Đối với hành vi đồng phạm của đối tượng H1 và H2, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[10] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra đối với bị cáo về tội danh, mức hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

[11] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Đắc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Lê Đắc H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/6/2020.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Lê Đắc H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 398/2020/HS-ST ngày 17/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:398/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về