Bản án 397/2019/HNGĐ-ST ngày 08/10/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A - TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 397/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/10/2019 VỀ XIN LY HÔN

Trong ngày 08 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 269/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2019 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 475/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Kim Thị H, sinh năm 1990; nơi cư trú: tổ 18, ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Thái Văn V, sinh năm 1990; nơi cư trú: tổ 18, ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà H có mặt, riêng ông V vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cùng với các tài liệu và chứng cứ kèm theo và quá trình tố tụng tại Tòa án, bà Kim Thị H trình bày: Bà Kim Thị H và ông Thái Văn V tự tìm hiểu yêu thương nhau đi đến hôn nhân vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P năm 2013. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến khoảng năm 2016 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã nhau và ly thân cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông V.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, hai người có 02 con chung tên Thái Thị Kha L, sinh ngày 10/01/2011 và Thái Hậu M, sinh ngày 01/11/2013.

Các con chung hiện nay do bà H nuôi dạy. Khi ly hôn bà H yêu cầu được nuôi dạy con chung. Không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết Về nợ chung: Không có.

Bị đơn ông Thái Văn V trình bày tại biên bản tự khai ngày 22/8/2019, ông V thống nhất với trình bày của bà H về thời gian kết hôn, chung sống và mâu thuẫn cũng như con chung, tài sản chung và nợ chung. Ông V và bà H không còn sống chung đã 03 năm và ông V đồng ý ly hôn với bà H.

Về con chung: Ông V cho rằng hiện nay các con chung do bà H nuôi dạy. Khi ly hôn ông đồng ý cho bà H tiếp tục nuôi dạy. Ông không cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Tài sản chung: Ông V thống nhất tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Ông V xác định không có nợ chung.

Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 25/7/2019 cháu Thái Thị Kha L, sinh ngày 10/01/2011 trình bày nguyện vọng muốn được sống chung với mẹ.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên họp để các đương sự thực hiện quyền tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định nhưng ông V vẫn vắng mặt nên Tòa án ghi nhận sự vắng mặt ông V và không tiến hành hòa giải được.

Tại Phiên Tòa bà H bảo lưu ý kiến về tình cảm, tài sản chung, nợ chung và con chung. Riêng ông V đã được Tòa án triệu tập đúng theo quy định của pháp luật ông V vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt ông V theo thủ tục chung.

Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hôn nhân: Ông Thái Văn V và bà Kim Thị H có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân P, huyện A vào năm 2013. Xét đây là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, việc mâu thuẫn giữa bà H và ông V không thể hàn gắn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H được ly hôn với ông V.

Về con chung: Thái Thị Kha L, sinh ngày 10/01/2011 và Thái Hậu M, sinh ngày 01/11/2013. Hiện nay các con chung do bà H nuôi dạy. Khi ly hôn bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy hai con chung, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi dạy con chung. Ông V đồng ý để bà H nuôi con chung. Vì vậy, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên nên giao cho bà H tiếp tục nuôi dạy là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82, 83, 84 Luật HNGĐ năm 2014.

Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, bên không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nhưng qua ghi nhận lời khai và tại phiên tòa bà H không yêu cầu nên công nhận sự tự nguyện này.

Về tài sản chung, nợ chung: Các bên khai tự thỏa thuận và cũng không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, quan điểm của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà H có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện A giải quyết về việc hôn nhân, nuôi con chung với ông V, đồng thời bị đơn cư trú trên địa bàn huyện A. Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

[1.2] Về việc vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Ông V được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa, ông V có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Vịnh Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự trong quá trình tố tụng thể hiện: Quan hệ hôn nhân giữa bà Kim Thị H và ông Thái Văn V tự tìm hiểu, có tổ chức đám cưới năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P vào năm 2013 theo quy định, được xem là hôn nhân hợp pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét yêu cầu của bà H xin ly hôn với ông V và ông V đồng ý được thể hiện tại biên bản tự khai ngày 22/8/2019 Hội đồng xét xử xét thấy thời gian ly thân giữa bà H và ông V đã lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn. Trong thời gian ly thân gia đình hai bên có đứng ra hòa giải nhưng không thành. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn của bà H và ông V đã đến mức trầm trọng nên Hội đồng xét xử xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H đối với ông V theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về nuôi dưỡng con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng: Bà H và ông V có 02 con chung tên Thái Thị Kha L, sinh ngày 10/01/2011 và Thái Hậu M, sinh ngày 01/11/2013. Hiện nay các con chung đang sống cùng bà H. Khi ly hôn bà H yêu cầu được nuôi dạy hai con chung, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi dạy con chung. Đồng thời, ông V đồng ý với yêu cầu bà H về việc bà H nuôi con chung. Vì vậy, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên nên Hội đồng xét xử xét giao con chung cho bà H tiếp tục nuôi dạy là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82, 83, 84 Luật HNGĐ năm 2014.

Ông V được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục các con chung, bà H không được cản trở việc thăm con chung. Vì sự phát triển của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cơ quan, tổ chức khác Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng hoặc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Do bà H không yêu cầu nên không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà H và ông V khai không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết. Trường hợp sau này ông, bà có yêu cầu chia tài sản chung thì có quyền khởi kiện trong một vụ án khác.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì bà Hành phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình.

Ông V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 147, 227, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm b, khoản 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH ngày 30/12/2016.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Kim Thị H.

Về hôn nhân: Bà Kim Thị H được ly hôn với ông Thái Văn V.

Về con chung: Bà Kim Thị H được quyền nuôi 02 con chung tên Thái Thị Kha L, sinh ngày 10/01/2011 và Thái Hậu M, sinh ngày 01/11/2013. Ông V không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Kim Thị H cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Thái Văn V trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về án phí: Bà Kim Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, chuyển từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0011417 ngày 09/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A. (bà H đã nộp đủ).

(Giấy chứng nhận kết hôn số 30 ngày 25/02/2013 do Ủy ban nhân dân xã P cấp không còn giá trị pháp luật kể từ ngày bản án có hiệu lực theo quy định pháp luật).

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc vắng mặt khi tuyên án, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ khi được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 397/2019/HNGĐ-ST ngày 08/10/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:397/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:08/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về