Bản án 396/2020/DS-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 396/2020/DS-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Trong ngày 24 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 336/2020/TLST-DS ngày 15 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 200/2020/QĐXX-ST ngày 09 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Lê Tuyết L, sinh năm 1972.

Địa chỉ: ấp T, xã X, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Thị Huỳnh N, sinh năm 1988.

Địa chỉ: ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Châu Thị Hoàng P, sinh năm 1972.

Văn Công H, sinh năm 1971.

Cùng địa chỉ: ấp A, xã X, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

(Chị N có mặt; bà P và ông H xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng tại Tòa án, đại diện ủy quyền của nguyên đơn Lê Tuyết L là chị Nguyễn Thị Huỳnh N trình bày:

Chị Lê Tuyết L có tham gia 02 dây hụi do bà Châu Thị Hoàng P (tên thường gọi Chín Hợi) làm chủ hụi:

Dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 05/5/2017 âm lịch, hụi gồm 12 phần, chị L tham gia 01 phần, hụi đóng quân bình mỗi tháng là 600.000 đồng, chị L đã đóng được 10 tháng được số tiền 6.000.000 đồng, đến tháng 8/2018 thì bà P tuyên bố vỡ hụi.

Dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, khui ngày 10/01/2018 âm lịch, hụi gồm 12 phân, chị L tham gia 01 phần, hụi đóng quân bình mỗi tháng là 1.500.000 đồng, chị L đã đóng được 08 tháng được số tiền 12.000.000 đồng, đến tháng 8/2018 thì bà P tuyên bố vỡ hụi.

Sự việc bà P làm chủ hụi chồng bà P là ông Văn Công H có biết và tiền hoa hồng đầu thảo từ việc chơi hụi bà P sử dụng vào kinh tế chung của gia đình. Tổng cộng bà P, ông H còn nợ chị L số tiền 18.000.000 đồng.

Trước đây chị L khởi kiện bà P và ông H trả số tiền hụi 26.000.000 đồng là đã có tính tiền hụi có lãi nhưng chị L rút yêu cầu đối với số tiền 8.000.000 đồng. Nay chị L yêu cầu bà P và ông H liên đới trả cho chị L số tiền 18.000.000 đồng, trả khi án có hiệu lực pháp luật.

Tại biên bản ghi lời khai bà Châu Thị Hoàng P trình bày:

Bà có làm chủ hụi dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 05/5/2017 âm lịch và dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, khui ngày 10/01/2018 âm lịch, chị L có tham gia chơi hai dây hụi này, mỗi dây hụi chị L tham gia 01 phần. Dây hụi 1.000.000 đồng/tháng chị L đóng được 10 kỳ, mỗi tháng đóng 600.000 đồng với số tiền 6.000.000 đồng. Dây hụi 2.000.000 đồng/tháng chị L đóng được 8 kỳ, mỗi kỳ đóng 1.500.000 đồng với số tiền 12.000.000 đồng. Tổng cộng hai dây hụi chị L đã đóng cho tôi số tiền 18.000.000 đồng. Nay bà đồng ý trả cho chị L số tiền hụi còn nợ là 18.000.000 đồng, bà sẽ bán đất để trả tiền cho chị L.

Tại biên bản ghi lời khai ông Văn Công H trình bày:

Ông có biết việc bà P làm chủ hụi, ông chỉ biết biết vợ ông chơi hụi, ông không có tham gia trực tiếp vào việc chơi hụi, lúc bà P làm chủ hụi thì ông làm vườn và đi ghe. Ông thống nhất với lời trình bày của bà P, ông và bà P sẽ trả số tiền hụi chị L đã đóng cho bà P là 18.000.000 đồng, ông sẽ bán đất để trả tiền cho chị L.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung giải quyết vụ án Đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lê Tuyết L về việc yêu cầu bị đơn Châu Thị Hoàng P và Văn Công H trả số tiền hụi 18.000.000 đồng

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ lời trình bày của đại diện ủy quyền của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn chị Lê Tuyết L khởi kiện yêu cầu bà Châu Thị Hoàng P và ông Văn Công H trả số tiền hụi còn nợ 18.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử xác định đây là “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo quy định tại Điều 471 của Bộ luật dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại địa phương nên thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét bị đơn bà Châu Thị Hoàng P và ông Văn Công H có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt bà P, ông H.

[3] Tại phiên tòa đại diện ủy quyền của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Huỳnh N vẫn giữ yêu cầu xin rút yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 8.000.000 đồng, Hội đồng xét xử xét thấy việc chị N rút một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự nên được chấp nhận.

[4] Đối với yêu cầu khởi kiện của chị Lê Tuyết L yêu cầu bà Châu Thị Hoàng Pvà ông Văn Công H trả số tiền 18.000.000 đồng, Hội đồng xét xử xét thấy:

[4.1] Chị L và bà P đều thống nhất việc chị L có tham gia chơi 02 dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, chị L đã đóng được 10 kỳ, mỗi kỳ 6.000.000 đồng với số tiền 6.000.000 đồng và dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, chị L đã đóng được 08 kỳ, mỗi kỳ 1.500.000 đồng với số tiền 12.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền hụi mà chị L đã đóng cho bà P là 18.000.000 đồng. Chị L khởi kiện yêu cầu bà P trả cho chị L số tiền 18.000.000 đồng, phía bà P cũng thừa nhận số tiền hụi mà chị L đã đóng cho bà P là 18.000.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử xác định bà P còn nợ chị L số tiền hụi 18.000.000 đồng, buộc bà P có nghĩa vụ trả cho chị L số tiền 18.000.000 đồng.

[4.2] Xét yêu cầu của chị L yêu cầu ông H liên đới cùng bà P trả số tiền hụi 18.000.000 đồng cho chị L vì bà P làm đầu thảo hụi tiền hoa hồng bà P dùng vào sinh hoạt gia đình và phía ông H cũng thống nhất cùng bà P trả cho chị L số tiền 18.000.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, buộc ông H liên đới cũng bà P trả cho chị L số tiền 18.000.000 đồng.

[4.3] Về yêu cầu tính lãi: Ghi nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu bà P, ông H trả tiền lãi.

[4.4] Về thời gian trả tiền: Chị L yêu cầu bà P, ông H trả số tiền hụi 18.000.000 đồng khi án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở vì bà P, ông H đã vỡ vụi và nợ tiền của chị L quá lâu làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chị L nên Hội đồng xét xử buộc bà P, ông H có nghĩa vụ trả cho chị L số tiền 18.000.000 đồng khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của chị L được Tòa án chấp nhận nên bà P, ông H phải chịu án phí theo quy định.

[6] Xét ý kiến và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là đúng quy định pháp luật tố tụng và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 228, Điều 229, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Điều 357, Điều 471, Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Căn cứ vào Điều 27 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 về họ, hụi, biêu, phường.

Căn cứ vào Điều 29 của Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 về họ, hụi, biêu, phường.

Căn cứ Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử:

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của chị Lê Tuyết L đối với số tiền 8.000.000 đồng.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Tuyết L.

Buộc bà Châu Thị Hoàng P và ông Văn Công H có nghĩa vụ trả cho chị Lê Tuyết L số tiền 18.000.000 đồng (Mười tám triệu đồng). Thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày chị Lê Tuyết L có đơn yêu cầu thi hành án nếu bà Châu Thị Hoàng P và ông Văn Công H không trả số tiền trên thì hàng tháng bà P, ông H phải trả lãi tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Về án phí: Bà Châu Thị Hoàng P và ông Văn Công H phải liên đới chịu 900.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho chị Lê Tuyết L 650.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004246 ngày 12/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C.

Báo đại diện ủy quyền của nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành theo qui định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 396/2020/DS-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:396/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về