Bản án 395/2020/DS-PT ngày 26/05/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 395/2020/DS-PT NGÀY 26/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong các ngày 21/5/2020 và ngày 26/5/2020, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 118/2020/TLPT-DS ngày 05/02/2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 490/2019/DS-ST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1825/2020/QĐ-PT ngày 23/4/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 4219/2020/QĐ-PT ngày 12/5/2020 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 4678/2020/QĐ-PT ngày 21/5/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Mỹ P, sinh năm 1982 Địa chỉ: A, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Hồ Lâm Phương D, sinh năm 1975 (có mặt) Địa chỉ: A1, Phường B1, Quận C1, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền số 124 do Phòng tư pháp Quận 6 lập ngày 23/7/2018)

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Mai H, sinh năm 1992 Địa chỉ: A2, Phường B2, Quận C2, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Nguyễn Thị Kim A- Văn phòng Luật sư Quang Duy; địa chỉ: 59/45 Mã Lò, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân- Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Âu Tuyết P1, sinh năm 1989 Địa chỉ: A3, phường B3, quận C3, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bà Quan Minh P2, sinh năm 1985 Địa chỉ: A4, Phường B4, quận C4, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Ông Trương Hoàng V, sinh năm 1982 Địa chỉ: A5, Phường B5, Quận C5, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Ông Lương Thuận M, sinh năm 1989 Địa chỉ: A6, phường B6, Quận C6, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Tất cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có đơn yêu cầu vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự thống nhất được nội dung như sau: Ngày 24/4/2018, bà Đỗ Thị Mỹ P có chuyển khoản cho bà Nguyễn Thị Mai H số tiền 1.100.000.000 đồng (một tỷ một trăm triệu đồng) theo số tài khoản 909017267000098 của bà H tại Phòng giao dịch Bến Thành- Ngân hàng Nam Á.

- Về yêu cầu khởi kiện, quan điểm, ý kiến của nguyên đơn: Bà và bà H là đồng nghiệp nên khi bà Mai H gặp khó khăn về tài chính có hỏi mượn bà số tiền 1.100.000.000 đồng (một tỷ một trăm triệu đồng), bà H hứa sẽ trả số tiền trên vào ngày 07/5/2018. Cùng ngày, bà đã chuyển cho bà Mai H số tiền 1.100.000.000 đồng (một tỷ một trăm triệu đồng) theo ủy nhiệm chi số ngày 24/4/2018 tại Ngân hàng Nam Á chi nhánh Bến Thành. Ngày 02/6/2018, bà H có nhờ bà Âu Tuyết P1 thay mặt bà Mai H chuyển trả cho bà số tiền 573.320.000 đồng (năm trăm bảy mươi ba triệu ba trăm hai mươi nghìn đồng). Số tiền còn lại là 526.680.000 đồng (năm trăm hai mươi sáu triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng) bà H chưa thanh toán. Ngày 15/5/2018 bà có mời văn phòng thừa phát lại huyện Bình Chánh lập vi bằng số 4346/2018/VB-TPLBC chứng kiến ghi nhận việc bà giao thông báo về việc “đề nghị bà H thực hiện nghĩa vụ trả tiền”. Nay bà khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị Mai H trả lại cho bà số tiền 526.680.000 đồng (năm trăm hai mươi sáu triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng), ngoài ra không có yêu cầu nào khác.

- Ý kiến và quan điểm của bị đơn: Vào khoảng tháng 3/2018, bà có nói với bà Mỹ P là bà có mối vay tiền để đáo hạn và làm dự án, bà Mỹ P có cho vay thì bà giới thiệu. Do bà P thấy bà đang cho bà Trần Thị L vay nên đồng ý và trực tiếp cho bà L vay với lãi suất do hai bên thỏa thuận theo từng đợt vay. Ngày 22/3/2018, bà Mỹ P chuyển khoản trực tiếp cho bà L vay số tiền là 1.000.000.000 đồng (một tỷ). Ngày 19/4/2018, bà Mỹ P tiếp tục chuyển khoản trực tiếp 2 (hai) lần tiền – một lần 800.000.000 đồng và một lần 200.000.000 đồng cho bà L vay. Tổng số tiền vay là 2.000.000.000 đồng này và bà L đã trả vốn và trả lãi đầy đủ cho bà Mỹ P. Ngày 24/4/2018, bà Mỹ P đã nhờ bà cho mượn tài khoản của bà để chuyển cho bà L vay với số tiền 1.100.000.000 đồng (một tỷ một trăm triệu) trong đó: Phần bà Mỹ P là 900.000.000 đồng và phần bà Quan Minh P2 là 200.000.000 đồng. Đến tối ngày 26/4/2018, bà nhận được thông báo bà Trần Thị L tuyên bố vỡ, không có khả năng thanh toán. Ngày 09/5/2018, thông qua sự trợ giúp pháp lý của luật sư Phạm Thị Bạch T, bà cùng tất cả những người có liên quan đến việc huy động vốn cho bà L vay đã gửi đơn tố cáo bà L tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Cần Thơ với số tiền mà bà L chiếm đoạt lên đến 40.000.000.000 đồng (bốn mươi tỷ). Sau đó bà L có thương lượng sẽ trả cho mọi người số tiền 12.000.000.000 đồng (mười hai tỷ), với điều kiện mọi người rút đơn tố cáo và không truy cứu trách nhiệm hình sự và dân sự với bà L sau này. Bản thân bà không đồng ý với đề nghị này nhưng những người liên quan vì nôn nóng và lo sợ không lấy lại được tiền nên đồng ý và ép buộc bà phải cùng ký đơn bãi nại. Tối ngày 29/5/2018, các bên đã lập Biên bản thỏa thuận thống nhất với nhau rằng sau khi bà L khắc phục được 1 phần hậu quả thì các bên cam kết không khiếu kiện, tố cáo về hình sự, dân sự lẫn nhau sau này. Cụ thể: bà Mỹ P cũng đồng ý chấp nhận lấy lại 52% số tiền đã cùng tham gia cho bà L vay và sẽ không kiện bà L hoặc bà. Theo thỏa thuận thì vào ngày 01/6/2018, sau khi bà L chuyển số tiền 12.000.000.000 đồng (mười hai tỷ) vào tài khoản của luật sư Phạm Thị Bạch T, luật sư T sẽ chuyển tiền cho từng cá nhân theo biên bản thỏa thuận. Sau đó khi bà Âu Tuyết P1- là người đại diện cho nhóm người mà bà Tuyết P1 huy động và nhóm những người cùng làm chung cơ quan với bà và bà Tuyết P1 nhận được cụ thể số tiền là 4.362.450.000 đồng sẽ có trách nhiệm chuyển lại phần tiền cho những nhóm người này tương đương với 52% số tiền của mỗi người và bà Âu Tuyết P1 cam kết sẽ chịu trách nhiệm nếu nhóm những người này có đơn kiện, tố cáo bà hoặc bà Trần Thị L. Do đó bà xác định không có vay tiền của bà Đỗ Thị Mỹ P, việc bà P chuyển tiền vào tài khoản của bà theo ủy nhiệm chi ngày 24/4/2018 là nhờ bà chuyển tiền cho bà L. Số tiền 573.320.000 đồng theo Giấy xác nhận của bà Âu Tuyết P1 không phải là số tiền bà trả cho bà Mỹ P mà đó là số tiền được chia trả từ số tiền của bà L theo Biên bản thỏa thuận ngày 29/5/2018. Do đó, bà không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Hoàng V trình bày: Ông là chồng của bà Đỗ Thị Mỹ P, việc bà P đang khởi kiện bà Mai H yêu cầu trả nợ ông có biết nhưng không có ý kiến gì do số tiền cho vay là tài sản riêng của bà P, ông yêu cầu được vắng mặt trong quá trình tố tụng.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lương Thuận M trình bày: Ông là chồng của bị đơn- bà Nguyễn Thị Mai H, việc bà P khởi kiện bà H ông không có liên quan đến khoản nợ trên và yêu cầu vắng mặt trong quá trình tố tụng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Quan Minh P2 trình bày: Ngày 24/4/2018, bà Đỗ Thị Mỹ P có hỏi mượn bà số tiền 200.000.000 đồng để nhập vào số tiền 900.000.000 đồng bà Mỹ P có để chuyển cho bà Nguyễn Thị Mai H vay 1.100.000.000 đồng. Đối với số tiền 200.000.000 đồng bà đã cho và Mỹ Phượng vay bà không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết trong vụ án này và yêu cầu được vắng mặt trong quá trình tiến hành tố tụng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Âu Tuyết P1 trình bày: Ngày 02/6/2018, bà Nguyễn Thị Mai H có nhờ bà thay mặt bà Mai H chuyển cho bà Đỗ Thị Mỹ P số tiền trên 500 triệu đồng, số tiền này bà nhận từ luật sư T, bà H ghi số tiền vào giấy nhờ bà chuyển hộ. Bà xác định bà Đỗ Thị Mỹ P không có mặt trong buổi thỏa thuận ngày 29/5/2018 giữa bà L và những người cho bà L vay tiền. Trong vụ án này, bà không có yêu cầu nào khác và yêu cầu vắng mặt trong quá trình tiến hành tố tụng.

Bản án sơ thẩm đã tuyên xử:

 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Mỹ P:

 Buộc bà Nguyễn Thị Mai H phải thanh toán cho bà Đỗ Thị Mỹ P số tiền là 526.680.000 đồng (năm trăm hai mươi sáu triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng). Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn về việc không yêu cầu bị đơn thanh toán tiền lãi. Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày bà P có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà H chưa thanh toán đủ số tiền như đã nêu trên thì hàng tháng bà H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự cũng như các quy định về thi hành án dân sự.

Ngày 25/12/2019, bị đơn- Bị đơn Nguyễn Thị Mai H kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

 Bị đơn có rút lại một phần nội dung kháng cáo- đó là việc Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét thụ lý đơn yêu cầu phản tố của bị đơn, tuy nhiên vẫn yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản sơ thẩm.

Nguyên đơn đề nghị giữ y bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

 Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các thành viên Hội đồng xét xử cũng như các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ ủy nhiệm chi ngày 24/4/2018 và lời xác nhận của bị đơn, đủ cơ sở xác định bị đơn đã nhận số tiền 1.100.000.000 (một tỷ một trăm triệu) đồng của nguyên đơn; hoàn toàn không có tài liệu, chứng nào chứng minh số tiền này liên quan đến bà Trần Thị L, nên việc Tòa án cấp sơ thẩm không triệu tập bà L tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là đúng pháp luật. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ y bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, lời đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị đơn và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 Xét kháng cáo của bị đơn- bà Nguyễn Thị Mai H, Hội đồng xét xử thấy rằng:

 Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn được thực hiện trong hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung: Bị đơn kháng cáo yêu cầu xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử XÉT THẤY

 [1]. Về thủ tố tụng:

 Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Trần Thị L cũng như những người tham dự tại Biên bản thỏa thuận ngày 29/5/2018 không liên quan trong vụ án và không triệu tập bà L tham gia tố tụng theo yêu cầu của bị đơn là có căn cứ, đúng pháp luật. Những người này chỉ có thể là người làm chứng trong vụ án, tuy nhiên họ đã không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa và việc vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.

Trong đơn kháng cáo, bị đơn có nêu về đơn phản tố của bị đơn không được Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn đã rút lại nội dung kháng cáo này, do vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm không xét.

[2]. Đối với ý kiến phản bác của bị đơn về số nợ 1.100.000.000 đồng và yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử NHẬN THẤY

 Như nội dung bản án sơ thẩm đã nhận định, bị đơn khai bà chỉ cho mượn số tài khoản để nguyên đơn chuyển tiền cho bà Trần Thị L vay, tuy nhiên bị đơn không có chứng cứ chứng minh có sự thỏa thuận giữa bị đơn và nguyên đơn về việc này, đồng thời không chứng minh được số tiền 1.100.000.000 đồng được chuyển cho bà L.

Bị đơn cho rằng nguyên đơn có liên quan trong các khoản nợ giữa bị đơn và bà L, nhưng cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì cho thấy sau khi nhận số tiền 1.100.000.000 đồng do nguyên đơn chuyển khoản, thì bà dùng số tiền này để thay bà L trả lãi cho những chủ nợ khác (như lời trình bày của bị đơn tại phiên tòa phúc thẩm). Rõ ràng cho thấy bị đơn có nợ tiền nguyên đơn theo ủy nhiệm chi ngày 24/4/2018 vào tài khoản số 909017267000098 của bà H tại Phòng giao dịch Bến Thành- Ngân hàng Nam Á và đến ngày 02/6/2018 thì trả bớt 573.320.000 đồng, nên số nợ còn lại là 526.680.000 đồng. Trên cơ sở đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn thanh toán cho nguyên đơn số nợ còn lại là hoàn toàn có căn cứ. Do vậy, Hội đồng xét xử thống nhất với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn.

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị đơn phải chịu án phí theo quy định là đúng.

Tuy nhiên, về việc hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn, tại bản án sơ thẩm đã có nhầm lẫn về biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0023201 ngày 02/7/2018- ghi là “của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình”, đúng phải là “của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 1”. Sự sai sót này chỉ là do nhầm lẫn khi đánh máy và không làm ảnh hưởng đến đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ khắc phục thay, Tòa án cấp sơ thẩm cần lưu ý, rút kinh nghiệm.

[4]. Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận, nên bị đơn phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 293; Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Căn cứ các Điều 280, Điều 463 Bộ luật dân sự 2015:

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn- bà Nguyễn Thị Mai H.

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 490/2019/DS-ST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh:

 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn- bà Đỗ Thị Mỹ P.

Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Mai H thanh toán cho nguyên đơn bà Đỗ Thị Mỹ P số tiền là 526.680.000 (Năm trăm hai mươi sáu triệu sáu trăm tám mươi nghìn) đồng.

Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn chưa thanh toán đủ số tiền như đã nêu trên, thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

 Bị đơn bà Nguyễn Thị Mai H phải chịu 25.072.000 (Hai mươi lăm triệu không trăm bảy mươi hai nghìn) đồng.

Hoàn lại nguyên đơn bà Đỗ Thị Mỹ P số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 12.533.600 (Mười hai triệu năm trăm ba mươi ba nghìn sáu trăm) đồng, theo biên lai thu số AA/2017/0023201 ngày 02/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Án phí dân sự phúc thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng bị đơn bà Nguyễn Thị Mai H chịu, được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, theo biên lai thu số AA/2019/0005622 ngày 26/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị đơn đã nộp đủ án phí phúc thẩm.

Các đương sự thi hành án theo các Điều 2, 6, 7, 7a, 7b, 9 và 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 395/2020/DS-PT ngày 26/05/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:395/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về