Bản án 394/2018/HNGĐ-ST ngày 10/08/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 394/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/08/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 10 tháng 8 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 323/2018/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2018 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Lệ H, sinh năm 1974; nơi cư trú: Số nhà 08 phố H,phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định (có mặt).

- Bị đơn: Anh Đỗ Xuân C, sinh năm 1968; Số nhà 08 phố H, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định (có mặt). Hiện tại anh Chiến đang chấp hành án tại Đội 28 K4, trại giam Ninh Khánh (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình đề ngày 09-7-2018, trongquá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Vũ Lệ H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Đỗ Xuân C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thành phố Nam Định ngày 14-5-1993. Anh chị có thời gian tìm hiểu một thời gian ngắn trước khi cưới. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2006 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm nên anh chị đã sống ly thân từ năm 2006 cho đến nay. Đầu năm 2017 anh C vi phạm pháp luật và đang phải chấp hành án tại Đội 28 K4, trại giam N với mức án 15 năm tù giam. Hiện nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có hai con chung là Đỗ Thị Thu H, sinh ngày 11-7-1992 và Đỗ Xuân H, sinh ngày 10-12-1997. Hiện nay hai con đã trưởng thành và có gia đình riêng, chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị H xác định vợ chồng không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai đề ngày 13-7-2018, bị đơn anh Đỗ Xuân C trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Vũ Lệ H kết hôn năm 1992, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T thành phố N. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2006 thì phát sinh mâu thuẫn và vợ chồng đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay anh xác định vợ chồng không thể hàn gắn được nữa, chị Hải xin ly hôn anh cũng đồng ý và đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có hai con chung, hiện nay hai con đã trưởng thành và có gia đình riêng, anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, vay nợ chung của vợ chồng: Anh xác định không có gì, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 13-7-2018 anh Đỗ Xuân C có đơn đề nghị được vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, vắng mặt tại phiên hòa giải và phiên tòa xét xử vụ án trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Anh Đỗ Xuân C là bị đơn đã có đơn xin xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

 [2] Về hôn nhân: Chị Vũ Lệ H và anh Đỗ Xuân C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Nam Định năm 1993 nên hôn nhân giữa chị H và anh C là hôn nhân hợp pháp.

 [3] Sau khi kết hôn chị H và anh C sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2006 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính cách vợ chồng không hòa hợp, luôn bất đồng quan điểm trong cuộc sống và đã sống ly thân từ năm 2006 cho đến nay. Nay chị H và anh C xác định tình cảm vợ chồng không còn và cùng có nguyện vọng được ly hôn. Ngoài ra, hiện nay anh C đang phải chấp hành án tại Đội 28 K4, trại giam N với mức án 15 năm tù giam nên không có điều kiện hòa giải mẫu thuẫn, đoàn tụ vợ chồng. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh C ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được do đó Hội đồng xét xử có căn cứ cho ly hôn giữa chị H và anh C theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [4] Về con chung: Xét hai cháu Đỗ Thị Thu H, sinh ngày 11-7-1992 và Đỗ Xuân H, sinh ngày 10-12-1997 đã trưởng thành và có gia đình riêng, anh C và chị H không đề nghị nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

 [5] Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị H và anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

 [6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H là nguyên đơn trong vụ án nên phảichịu toàn bộ án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Vũ Lệ H và anh Đỗ Xuân C.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Vũ Lệ H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Khấu trừ khoản tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị Vũ Lệ H đã nộp tại biên lai số 0000126 ngày 09-7-2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N.

Chị Vũ Lệ H có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đỗ Xuân C có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 394/2018/HNGĐ-ST ngày 10/08/2018 về ly hôn

Số hiệu:394/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về