Bản án 393/2020/DS-PT ngày 28/10/2020 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hơp đồng do sức khỏe và tài sản bị xâm phạm 

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 393/2020/DS-PT NGÀY 28/10/2020 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HƠP ĐỒNG DO SỨC KHỎE VÀ TÀI SẢN BỊ XÂM PHẠM 

Ngày 28 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 376/2020/TLPT-DS ngày 01 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe và tài sản bị xâm phạm”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 41/2020/DS-ST ngày 06/07/2020 của Toà án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 460/2020/QĐ-PT ngày 05 tháng 10 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị H, sinh năm 1968 (có mặt).

Địa chỉ: ấp Bình Q, xã Bình P, huyện Cai L, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn:

1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1962 (có mặt).

2. Chị Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1985 (xin vắng mặt).

3. Chị Nguyễn Thị Kim Ch, sinh năm 1994 (xin vắng mặt).

Cùng địa chỉ: ấp Bình Q, xã Bình P, huyện Cai L, tỉnh Tiền Giang - Người kháng cáo: Bị đơn Nguyễn Thị T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm, nguyên đơn, bà Đỗ Thị H trình bày: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 13/12/2015, khi bà từ trong nhà bà Phan Thị Điểu (ấp Bình Q, xã Bình P, huyện Cai L, tỉnh Tiền Giang) bước ra thì bà Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Kim C, chị Nguyễn Thị Kim Ch chặn lại. Chị C dùng tay đánh vào mặt bà, chị Ch và bà T đánh vào đầu bà, bà T kéo quần bà xuống. Sự việc gây thương tích bà phải đi điều trị tại Bệnh viện đa kH khu vực Cai L và Bệnh viện Đại học y dược Thành phố Hồ Chí Minh. Bà khởi kiện yêu cầu bà T, chị C và chị Ch liên đới bồi thường 2.295.000đ Ch phí điều trị; 200.000đ tiền xe đi lại để điều trị; tiền mất thu nhập thời gian 14 ngày là 1.400.000đ, tiền mặt 1.050.000đ bị mất; 01 đôi bông tai 0,6 chỉ vàng 18k bị mất và 30.000.000đ tiền tổn thất về tinh thần.

Bị đơn trình bày bà Nguyễn Thị T trình bày: Theo quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì hàng tháng bà H phải trả cho bà 30.000đ tiền nợ hụi nhưng bà H không chịu trả. Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 13/12/2015, bà và 02 con là chị Nguyễn Thị Kim C và chị Nguyễn Thị Kim Ch có xảy ra xô xát với bà Đỗ Thị H, vụ việc đã được Tòa án nhân dân huyện Cai L và Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử và bà đã bồi thường thiệt hại cho bà H theo quyết định của Tòa án.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 56/2016/DS-ST ngày 28/6/2016, Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị H. Buộc bà Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Kim C và chị Nguyễn Thị Kim Ch liên đới bồi thường thiệt hại sức khỏe bị xâm phạm cho bà Đỗ Thị H số tiền 2.795.000đ; Không chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm số tiền 1.050.000đ và 01 đôi bông tai 0,6 chỉ vàng 18k của bà Đỗ Thị H; Không chấp nhận yêu cầu bồi thường số tiền 30.000.000đ bị tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm của bà Đỗ Thị H.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 371/2016/DS-PT ngày 21/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang quyết định: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đương sự. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 56/2016/DS-ST ngày 28/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 194/2019/DS-GĐT ngày 04/10/2019, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 371/2016/DS-PT ngày 21/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 56/2016/DS-ST ngày 28/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại công văn số 46/CV.CCTHA ngày 23/4/2020 của Ch cục Thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xác định đã thi hành xong bản án dân sự phúc thẩm số 371/2016/DS-PT ngày 21/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn bà Đỗ Thị H yêu cầu bà Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Kim C liên đới bồi thường tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm số tiền 10.000.000đ. Đối với các khoản tiền thuốc, tiền mất thu nhập, tiền xe đi lại điều trị bệnh bà đã nhận tiền bồi thường xong nên không yêu cầu giải quyết lại; Các khoản thiệt hại mất thu nhập, mất tài sản bà xin rút lại không yêu cầu giải quyết, đồng thời bà tự nguyện cho bà T, chị C, chị Ch trả làm 02 lần, cụ thể ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật trả 5.000.000đ, tháng sau trả tiếp 5.000.000đ.

Bị đơn bà Nguyễn Thị T đồng ý bồi thường tổn thất tinh thần cho bà Đỗ Thị H do sức khỏe bị xâm phạm số tiền 10.000.000đ, nhưng đề nghị bà H phải trả số tiền nợ hụi cho bà trước thì bà mới bồi thường.

Tại Bản án dân sơ thẩm số 41/2020/DS-ST ngày 06 tháng 7 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đã áp dụng các Điều 26, Điều 36, Điều 40, Điều 147, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 357, Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 587, Điều 590 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 18, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị H. Buộc bà Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Kim C và chị Nguyễn Thị Kim Ch cùng có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại tổn thất tinh thần cho bà Đỗ Thị H do sức khỏe bị xâm phạm số tiền 10.000.000đ.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Đỗ Thị H cho bà Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Kim C và chị Nguyễn Thị Kim Ch bồi thường số tiền 10.000.000đ làm 02 lần, cụ thể ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật trả 5.000.000đ, tháng sau trả tiếp 5.000.000đ.

Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản (tiền mặt 1.050.000đ bị mất; 01 đôi bông tai 0,6 chỉ vàng 18k bị mất) của bà Đỗ Thị H đối với bà Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Kim C và chị Nguyễn chị Kim Ch.

2. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 24/7/2020, bị đơn bà Nguyễn Thị T có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang sửa một phần bản án số 41/2020/DS-ST ngày 07/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang; không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị H buộc bà Nguyễn Thị T cùng Nguyễn Thị Kim C và Nguyễn Thị Kim Ch có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại tổn thất tinh thần cho bà Đỗ Thị H do sức khỏe bị xâm phạm số tiền là 10.000.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm;Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn Nguyễn Thị T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, bà T kháng cáo yêu cầu bà H phải trả bà số tiền 13.400.000đồng trước thì bà T đồng ý trả bà H số tiền 10.000.000đồng. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang: Về tố tụng: Thẩm phán, thư ký, Hội dồng xét xử chấp hành đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự thực hiện đúng qui định của pháp luật; Về nội dung: Xét bản án sơ thẩm đã thu thập chứng cứ đầy đủ, xét xử đúng qui định của pháp luật. Bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp chứng cứ gì mới để chứng minh. Nên đề nghị hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]Về tố tụng :Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp “ Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm” là có căn cứ, đúng pháp luật.

- Đối với chị Nguyễn Thị Kim C và chị Nguyễn Thị Kim Ch có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử vụ án vắng mặt Ch C và chị Ch theo qui định tại khoản 2 Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung : Ngày 13/12/2015 bà Đỗ Thị H (tên thường gọi là Đỗ Thị Thu) với bà Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Kim C và chị Nguyễn Thị Kim Ch có xảy ra xô xát trong việc tranh chấp tiền phải thi hành án mà bà H còn nợ bà T. Bà H khởi kiện yêu cầu các bị đơn gồm bà T, chị C và chị Ch liên đới bồi thường thiệt hại tài sản và sức khỏe bị xâm phạm gồm: Ch phí điều trị thương tích: 2.295.000đồng; Tiền đi lại diều trị: 200.000 đồng; Thu nhập bị mất: 1.400.000đồng; Tài sản bị mất:

1.050.000đồng và đôi bông tay 0,6 chỉ vàng 18kr; tổn thất về tinh thần là 30.000.000đồng .

-Tại bản án dân sư sơ thẩm số 56/2016/DS-ST ngày 28/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đã xét xử: Buộc bà T, chị C và chị Ch liên đới bồi thường cho bà H số tiền 2.795.000đồng; Không chấp nhận yêu cầu của bà H đòi thiệt hại tài sản bị xâm phạm là 1.050.000đồng và 01 đôi bông tai 0,6 chỉ vàng 18kr; Không chấp nhận yêu cầu bồi thường số tiền 30.000.000đồng bị tổn thất về tinh thần;

- Ngày 04/7/2016 bà H kháng cáo bản án sơ thẩm. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 371/2016/DS-PT ngày 21/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã xét xử, Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Đỗ Thị H, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 56/2016/DS-ST ngày 28/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

- Ngày 29/9/2019 bà H có đơn yêu cầu giám đốc thẩm bản án sơ thẩm và phúc thẩm. Tại quyết định giám đốc thẩm sô 194/2019/DS-GĐ-T ngày 04/10/2019 của Tòa án nhân dân Cấp Cao tai thành Phố Hồ Chí Minh đã quyết định hủy bản án phúc thẩm số 371/2016/DS-PT ngày 21/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 56/2016/DS-ST ngày 28/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn giám đốc thẩm thì các bị đơn đã thi hành xong các khoản thiệt hại gồm: Tiền thuốc, tiền mất thu nhập, tiền xe đi lại điều trị, các đương sự cùng xác định đã thi hành xong và không tranh chấp nên Tòa án sơ thẩm đã đình chỉ xét xử yêu cầu này. Các bên còn tranh chấp yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần với số tiền 10.000.000đồng. Sau khi tòa án sơ thẩm xét xử, buộc các bị đơn phải liên đới bồi thường tổn thất tinh thần cho bà H số tiền 10.000.000đồng thì bị đơn Nguyễn Thị T kháng cáo bản án sơ thẩm.

[3]Xét yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị T, Hội đồng xét xử thấy rằng Ngày 13/12/2015 bà Đỗ Thị H (tên thường gọi là Đỗ Thị Thu) với bà Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Kim C và chị Nguyễn Thị Kim Ch có xảy ra xô xát là có thật, được các bên thừa nhận. Căn cứ tài liệu thu thập có trong hồ sơ thì bà T, chị C và chị Ch cùng nhau nhau đánh, nắm đầu và tụt quần bà H. Cho nên hành vi này của bị đơn đã ảnh hưởng đến sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của bà H, lỗi hoàn toàn thuộc về phía bị đơn, nên các bị đơn phải có nghĩa vụ bồi thường cho bà H là đúng pháp luật. Xét nội dung bản án sơ thẩm đã xét xử buộc bà T, chị C và chị Ch liên đới bồi thường cho bà H số tiền 10.000.000đồng là có căn cứ phù hợp với hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 1.5 mục 1 phần II của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, cụ thể quy định như sau: "Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường". Bà T kháng cáo không cung cấp thêm chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có cơ sở, nên không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà T, giữ nguyên bản án sơ thẩm theo qui định tại khỏan 1 Điều 308 của bộ luật tố tụng dân sự. Ngoài ra bà T còn nại ra rằng do bà H còn nợ bà số tiền 13.400.000đồng nợ hụi theo bản án sơ thẩm số 116/2014/DS-ST ngày 25/8/2014 đến nay chưa thi hành và đề nghị khấu trừ. Xét thấy, việc thi hành bản án dân sự số 116/2014/DS-ST ngày 25/8/2014 là quyền yêu cầu của bà T và thuộc trách nhiệm giải quyết của Ch cục thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, nay bà T yêu cầu khấu trừ số tiền này là không có cơ sở, không được tòa án chấp nhận.

[4] Xét lời đề nghị của Vị Đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5]Về án phí phúc thẩm: Do không chấp nhận đơn kháng cáo của bà T, nên Bà T phải chịu án phí phúc thẩm theo qui định tại Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự. Được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí do bà T nộp theo biên lai thu số 0006028 ngày 22/10/2020, xem như bà T thi hành xong án phí dân sự phúc thẩm.

[5.1] Về án phí dân sự sơ thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ khoản 3 Điều 18 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 31/12/2016 tuyên giao trả lại cho bà Đỗ Thị H ( Đỗ Thị Thu) số tiền 400.000đồng tạm ứng án phí theo các biên lai thu số 13178 ngày 24/02/2016 và biên lai thu số 13525 ngày 04/7/2016 của Ch cục Thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang là phù hợp.

[5.2] Bà Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị Kim C và Nguyễn Thị Kim Ch phải liên đới chịu 500.000đồng án phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên theo công văn số 46/CV.CCTHA ngày 23/4/2020 của Ch cục Thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xác định đã thi hành xong bản án dân sự phúc thẩm số 371/2016/DS-PT ngày 21/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang. Tuy nhiên, do Bản án dân sự phúc thẩm số 371/2016/DS-PT ngày 21/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang và Bản án dân sự sơ thẩm số 56/2016/DS-ST ngày 28/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đã bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh hủy và giao hồ sơ vụ án về cho Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm .Trường hợp bà T, chị C và chị Ch đã thi hành xong bản bản án dân sự phúc thẩm số 371/2016/DS-PT ngày 21/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang với số tiền án phí sơ thẩm 200.000đồng, nên phải tiếp tục nộp tiếp số tiền 300.000đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 148,khoản 2 Điều 296, khoản 1 điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ vào các Điều 357, Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 587, Điều 590,592 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 18, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị T, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 41/2020/DS-ST ngày 06 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị H.

-Buộc bà Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Kim C và chị Nguyễn Thị Kim Ch cùng có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại tổn thất tinh thần cho bà Đỗ Thị H do sức khỏe bị xâm phạm số tiền 10.000.000đ.

-Ghi nhận sự tự nguyện của bà Đỗ Thị H cho bà Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Kim C và chị Nguyễn Thị Kim Ch bồi thường số tiền 10.000.000đ làm 02 lần, cụ thể ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật trả 5.000.000đ, tháng sau trả tiếp 5.000.000đ.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản (tiền mặt 1.050.000đ bị mất; 01 đôi bông tai 0,6 chỉ vàng 18k bị mất) của bà Đỗ Thị H đối với bà Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Kim C và chị Nguyễn chị Kim Ch.

4. Về án phí:

-Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí do bà T nộp theo biên lai thu số 0006028 ngày 22/10/2020 , xem như bà T thi hành xong án phí dân sự phúc thẩm.

- Bà Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Kim C và chị Nguyễn chị Kim Ch phải liên đới chịu 500.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

-Trả lại cho bà Đỗ Thị H (Đỗ Thị Thu) 400.000đ tạm ứng án phí, theo các biên lai thu số 13178 ngày 24/02/2016 và biên lai thu số 13525 ngày 04/7/2016 của Ch cục Thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

419
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 393/2020/DS-PT ngày 28/10/2020 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hơp đồng do sức khỏe và tài sản bị xâm phạm 

Số hiệu:393/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về