Bản án 39/2021/HS-ST ngày 29/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 39/2021/HS-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại phòng xử án Toà án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2021/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 34/QĐXXST-HS ngày 14/4/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Duy V (tên gọi khác: Không); sinh ngày 26 tháng 9 năm 2000 tại huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: thôn 6, xã H B, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Tr, sinh năm: 1975 và bà Lưu Thị H, sinh năm: 1977; có vợ là chị Nguyễn Thị L, sinh năm 2001; có 01 con sinh năm 2020; tiền án: Ngày 26/11/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng, về tội: Cố ý gây thương tích”; tiền sự: Ngày 20/9/2019 bị Công an huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: Xâm hại sức khỏe người khác.

Ngày 23/9/2019 chấp hành xong; ngày 17/12/2019 bị Công an huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: Xâm hại sức khỏe người khác. Ngày 09/01/2020 chấp hành xong; ngày 03/5/2020 bị Công an xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: Ném gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác; bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 23/12/2020 đến ngày 01/01/2021, tạm giam từ ngày 01/01/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Khắc V, sinh năm 2002; nơi cư trú: Thôn 5, xã L Kh, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, có mặt tại phiên tòa.

2. Anh Vũ Văn H, sinh năm 1990; nơi cư trú: Tổ 1, khu Hiệp An 1, phường Ph N, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

3. Anh Trịnh Văn T, sinh năm 2002; nơi cư trú: Tổ 1, khu Hợp Thành, phường Ph N, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 15 giờ ngày 23/12/2020, Phạm Duy V đang cắt tóc ở khu vực ngã ba đường 10 thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh thì có 01 người gọi điện nói “cho anh 2 gờ ke”, do đã nhiều lần bán ma túy cho người khác nên V đồng ý và hỏi “anh đang ở đâu”, người này nói “anh đang ở nhà nghỉ Khánh An đoạn đi vào hồ Yên Trung”. V nói 1 gam ma túy giá 1.800.000 đồng, người này đồng ý mua. Sau đó, V bắt taxi đến khu vực chân cầu Quay thuộc thành phố Hải Phòng, V đi bộ đến gặp và hỏi mua được của 01 người đàn ông không quen biết 02 túi ma túy “Ke” với giá 2.800.000 đồng (1.400.000 đồng/01 gam), sau đó V đi taxi trở lại quán cắt tóc. Về đến quán V gọi điện cho Nguyễn Khắc V là bạn V đến để chở V đi giao ma túy (V không nói cho V biết việc chở V đi bán ma túy), V đồng ý. Khoảng 20 phút sau V đến, V bảo V chở đến nhà nghỉ Khánh An thuộc tổ 1, khu Tân Lập 2, phường Ph Đ, thành phố Uông Bí. Khi gần đến nhà nghỉ thì V bảo V dừng xe, V xuống đi bộ và định gọi điện cho người mua ma túy thì bị lực lượng Công an bắt quả tang thu giữ 02 túi nilon màu trắng cùng kích thước khoảng (2,5x3) cm có chứa chất tinh thể màu trắng. Ngoài ra còn thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, gắn sim số 0778.208.166.

Tại bản Kết luận giám định số 149/KLGĐ ngày 29/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật gửi giám định ghi thu của Phạm Duy V là ma túy, loại Ketamine, khối lượng như sau: M1 là 0,601 gam; M2 là 0,742 gam.

Tại Cơ quan điều tra Phạm Duy V khai nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã nêu, ngoài ra V khai việc bán ma túy trước đây V không nhớ bán cho ai và được bao nhiêu tiền.

- Về vật chứng và các tài sản bị tạm giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, gắn sim số 0778.208.166 và 01 phong bì niêm phong số 149/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại sau giám định, Cơ quan điều tra chuyển Chi cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí quản lý theo quy định.

Bản cáo trạng số 34/CT-VKSUB ngày 30/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố Phạm Duy V về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị: Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo: Phạm Duy V từ 30 đến 36 tháng tù, về tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 23/12/2020. Tổng hợp hình phạt của Bản án số 90 ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã xử phạt bị cáo V 24 tháng tù (cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng), về tội: Cố ý gây thương tích”, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án từ 54 tháng đến 60 tháng tù. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

- Căn cứ: điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015; điểm a, c khoản 2, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu sung NSNN 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen; tịch thu tiêu hủy 01 phôi sim số 0778.208.166 và 01 phong bì niêm phong số 149/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh.

Tại phiên tòa, bị cáo nhận tội và thừa nhận: Việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Khắc V có lời khai tại phiên tòa và lời khai trong quá trình điều tra phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay; những người làm chứng: Anh Vũ Văn H và anh Trịnh Văn T có lời khai trong quá trình điều tra phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội đối với bị cáo: Lời khai của bị cáo Phạm Duy V tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người làm chứng và nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 45 phút ngày 23/12/2020, tại tổ 1, khu Tân Lập 2, phường Ph Đ, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Phạm Duy V bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi mua bán trái phép 1,343 gam ma túy loại Ketamine. Bị cáo là người thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, tuy biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

[3.1]Hình phạt chính:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp tái phạm và bị áp dụng tình tiết tăng nặng về trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Về tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu, có 03 tiền sự và 01 tiền án, phạm tội khi đang trong thời gian thử thách của Bản án số 90/2018/HS-PT, ngày 26/11/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng, về tội: Cố ý gây thương tích”, vì vậy theo quy định tại khoản 5 Điều 65 và khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự khi phạm tội lần này bị cáo phải chấp hành hình phạt tù đối với 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo đối với Bản án số 90/2018/HS-PT, ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng và tổng hợp với hình phạt của Bản án mới. Để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo, cần có một hình phạt nghiêm, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để rèn luyện, giáo dục bị cáo sửa chữa lỗi lầm của bản thân để trở thành công dân tốt.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo lao động tự do không có công việc ổn định, không có thu nhập, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 149/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, đây là chất Nhà nước cấm lưu hành và 01 sim số 0778.208.166 không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, bị cáo dùng để liên lạc với người mua ma túy, đây là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[5] Về các tình tiết khác trong vụ án: Đi với Nguyễn Khắc V chở Phạm Duy V đến điểm bán ma túy nhưng không biết việc V bán ma túy nên không có căn cứ xử lý; Đối với người bán ma túy cho Phạm Duy V và người hỏi mua ma túy của V hiện không rõ lai lịch, địa chỉ, nên không có căn cứ xử lý.

[6]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định;

[7]Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56; khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố: bị cáo Phạm Duy V phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

 - Xử phạt: bị cáo Phạm Duy V 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của Bản án số 90/2018/HS-PT ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã xử phạt bị cáo Phạm Duy V 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng, về tội: “Cố ý gây thương tích”, buộc bị cáo Phạm Duy V phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 60 (Sáu mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 23/12/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ: điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 149/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh và 01 (một) sim số 0778.208.166. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen. (Tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng hồi 10 giờ, 00 phút, ngày 14 tháng 4 năm 2021 giữa Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí: Căn cứ: khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Phạm Duy V phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

4. Về Quyền kháng cáo: Căn cứ: Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Bị cáo Phạm Duy V có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2021/HS-ST ngày 29/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về