TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 39/2020/HS-ST NGÀY 08/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 37/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2020/QĐST-HS ngày 03.8.2020 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa đối với bị cáo:
Họ tên: Đoàn Văn D, tên gọi khác: Không, sinh ngày: 25.12.1993; nơi cư trú: Khu H, phường A, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Giới tính: Nam. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Trình độ học vấn: 11/12. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đoàn Văn D, sinh năm: 1973 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1975. Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 02 anh em. Vợ: Đỗ Thị Tố Q, sinh năm: 1998, có 01 con, sinh năm: 2020.
Tiền sự: Không.
Tiền án: Ngày 08.01.2018 bị Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội tuyên phạt 09 tháng tù về tôi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 06/2018/HS-ST. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 26.7.2018.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 13.4.2020, tạm giam ngày 22.4.2020. Có mặt.
- Người bị hại: Anh Nguyễn Quang T, sinh năm 1987; nơi cư trú: xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 05.4.2020, Đoàn Văn D thông qua mạng Facebook thì được biết anh Nguyễn Quang T đang cần người làm phụ hồ nên D xin vào làm để xây dựng nhà tại thôn 5, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. D bắt đầu làm việc từ ngày 06.4.2020 và ngủ lại tại công trình xây nhà. Đến khoảng 04h30’ ngày 10.4.2020, D dậy đi vệ sinh thì thấy chiếc ví của anh T để bên cạnh anh T và trên đầu giường có 01 chìa khóa xe mô tô hiệu Honda Wave biển kiểm soát 74C1- 178.09 nên D đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản trên, D thò tay lấy chiếc ví bỏ vào túi quần và lấy chìa khóa dắt xe mô tô hiệu Honda Wave biển kiểm soát 74C1- 178.09 ra ngoài đường, nổ máy chạy xe sang khu vực phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng. Sau đó D mở chiếc ví da ra kiểm tra, bên trong có 11.500.000 đồng tiền mặt, 01 chứng minh nhân dân, 01 hộ chiếu, giấy tờ xe mô tô 74C1-178.09. D đã tiêu sài hết số tiền 11.500.000 đồng của anh T vào việc chơi game và lên mạng bán chiếc xe mô tô biển kiểm soát 74C1-178.09 cho một người (chưa xác định được lai lịch) trên mạng xã hội Facebook được số tiền 4.000.000 đồng. D đã sử dụng số tiền này chơi game và tiêu xài cá nhân hết.
Đến khoảng 15h00’ ngày 13.4.2020 Đoàn Văn D đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòa Vang đầu thú và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Theo Bản kết luận định giá số 11/HĐĐG ngày 20.4.2020 của Hội đồng định giá thường xuyên huyện H thì tại thời điểm trộm cắp (tháng 4.2020): 01 xe mô tô hiệu Honda Wave RSX biển kiểm soát 74C1-178.09 có giá trị là 12.000.000 đồng.
Như vậy, tổng giá trị tài sản mà Đoàn Văn D chiếm đoạt của anh Nguyễn Quang T là 23.500.000 đồng (hai mươi ba triệu, năm trăm nghìn đồng).
Tại Bản cáo trạng số 42/CT-VKS-HV ngày 26.6.2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Đoàn Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Xử phạt: Bị cáo Đoàn Văn D từ 15 đến 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Về dân sự: Buộc bị cáo Đoàn Văn D phải bồi thường cho người bị hại anh Nguyễn Quang T tổng số tiền 23.500.000 đồng.
- Đối với chiếc ví da (đã cũ, anh T không yêu cầu định giá tài sản), 01 chứng minh nhân dân, 01 hộ chiếu, 01 giấy tờ xe mô tô biển kiểm soát 74C1-178.09 đều mang tên Nguyễn Quang T thì anh T không yêu cầu đền bù nên đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập đến.
- Bị cáo Đoàn Văn D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, quá trình xét hỏi bị cáo Đoàn Văn D thừa nhận hành vi phạm tội như trong bản cáo trạng đã truy tố.
Bị cáo nói lời sau cùng: Đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Lời khai nhận tội của bị cáo Đoàn Văn D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cở sở xác định:
Khoảng 04h30’ ngày 10.4.2020 tại thôn 5, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng Đoàn Văn D đã có hành vi lén lút trộm cắp của anh Nguyễn Quang T 01 chiếc ví da bên trong có 11.500.000 đồng cùng một số giấy tờ tùy thân và 01 xe mô tô hiệu Honda Wave RSX biển kiểm soát 74C1-178.09 có giá trị là 12.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà Đoàn Văn D chiếm đoạt của anh Nguyễn Quang T là 23.500.000 đồng (hai mươi ba triệu, năm trăm nghìn đồng). Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Bản cáo trạng số 42/CT-VKS-HV ngày 26.6.2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.2] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo Đoàn Văn D đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an xã hội tại địa phương nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.
[2.3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của bị cáo thì thấy: Bị cáo Đoàn Văn D phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo tự nguyện ra đầu thú, thành khẩn khai báo nên Đoàn Văn D được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc khi lượng hình.
[3] Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc ví da (đã cũ, anh T không yêu cầu định giá tài sản), 01 chứng minh nhân dân, 01 hộ chiếu, 01 giấy tờ xe mô tô biển kiểm soát 74C1-178.09 đều mang tên Nguyễn Quang T thì anh T không yêu cầu đền bù nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết.
[4] Về dân sự: Người bị hại anh Nguyễn Quang T yêu cầu bị cáo Đoàn Văn D phải bồi thường tổng số tiền 23.500.000 đồng. Hiện nay, bị cáo chưa bồi thường được đồng nào cho anh T nên cần áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, 586, 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Đoàn Văn D phải bồi thường cho người bị hại anh Nguyễn Quang T tổng số tiền 23.500.000 đồng.
[5] Về án phí: Bị cáo Đoàn Văn D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự theo quy định của pháp luật.
[6] Theo những nhận định như trên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Đoàn Văn D 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13.4.2020.
2. Về dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, 586, 589 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo Đoàn Văn D phải bồi thường cho người bị hại anh Nguyễn Quang T tổng số tiền 23.500.000 đồng (hai mươi ba triệu, năm trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà bên phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ của mình thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:
Bị cáo Đoàn Văn D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.175.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về thời hạn kháng cáo: Báo cho bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 08.9.2020.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 39/2020/HS-ST ngày 08/09/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 39/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về