Bản án 39/2020/HNGĐ-ST ngày 21/07/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 39/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ LY HÔN

Vào ngày 21 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 192/2020/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2020 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2020/QĐST-DS ngày 03 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Phương T, sinh năm 1970, Địa chỉ: b, ấp C, xã T, thành phố T, tỉnh Tiền Giang 2. Bị đơn: Anh Lê Hữu S, sinh năm 1975;

Địa chỉ: ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre. Các đương sự có mặt tại Tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, các biên bản hòa giải và tại phiên tòa hôm nay chị T trình bày Chị và anh Lê Hữu S tự nguyện kết hôn vào năm 2008, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân phường A, thành phố T, tỉnh Tiền Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 25/10/2010. Sau khi kết hôn, cuộc sống của vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn ngay từ tháng 8/2008 do anh S không trung thực. Anh S nói chị đã ly hôn vợ rồi nhưng thực tế chưa ly hôn. Khi đó, anh S thường xuyên về ở với vợ cũ chỉ về thăm chị và con mỗi tuần một lần. Năm 2010 anh chị đăng ký kết hôn mục đích chỉ để đăng ký khai sinh cho con chứ vợ chồng chị vẫn mâu thuẫn, không cải thiện được tình cảm vợ chồng. Đến nay, anh S vẫn còn thường xuyên qua lại tình cảm với người vợ cũ. Chị và anh S đã ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Trong thời gian ly thân, anh S thỉnh thoảng mới về thăm con, tuy nhiên vợ chồng chị không ai quan tâm chăm sóc ai, mạnh ai người đó sống. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng giữa chị với anh S không còn, chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh S.

Về con chung: 01 con chung tên Lê Hữu Đăng K, sinh ngày 29/8/2008. Hiện cháu đang ở với chị T tại thành phố T, tỉnh Tiền Giang. Sau khi ly hôn, chị T yêu cầu nuôi con, không yêu cầu anh S cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung: chị T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản tự khai, các biên bản hòa giải, biên bản làm việc và tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Lê Hữu S trình bày:

Anh S thống nhất với phần trình bày của chị T về thời gian vợ chồng anh chị chung sống và thời điểm anh chị đăng ký kết hôn. Trong quá trình anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian, tháng 4/2020 mới phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng cụ cãi là do chị T không thương anh, chị T có bạn khác. Anh thường xuyên tới lui với vợ cũ là do chị T không thương anh, anh về để thăm các con. Trong thời gian qua anh thỉnh thoảng có về nhà ở thành phố T để thăm con chung của anh với chị T nhưng anh và chị T không gặp nhau, không ai quan tâm đến ai, mạnh ai người đó sống. Nay chị T yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý.

Về con chung: Có 01 con chung như chị T trình bày. Hiện con chung đang ở với chị T. Khi ly hôn anh S đồng ý để con chung cho chị T nuôi, anh không cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: anh S khai có tài sản chung. Trước đây, tại phiên hòa giải anh S có yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng nhưng sau đó không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa, anh S khẳng định không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của anh với chị T.

Về nợ chung: anh S khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng và quan điểm giải quyết vụ án: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị Phương T đối với anh Lê Hữu S. Giao con chung là Lê Hữu Đăng K, sinh ngày 29/8/2008 cho chị T tiếp tục nuôi giữ, chăm sóc. Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Về nợ chung: các đương sự khai không có, nên không xét đến. Về án phí giải quyết theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và nội dung vụ án, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Qua xác minh và tại phiên tòa anh S thừa nhận anh S có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp T, xã A, huyện A, tỉnh Bến Tre và thỉnh thoảng có về ở địa chỉ nêu trên nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre.

Chị Phạm Thị Phương T và anh Lê Hữu S tự nguyện kết hôn vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường A, thành phố T, tỉnh Tiền Giang và và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 25/10/2010 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống chị T và anh S phát sinh mâu thuẫn, chị T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh S, yêu cầu của chị T được Tòa án xem xét giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay chị T xác định đã không còn tình cảm với anh S nên vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Lê Hữu S.

Hội đồng xét xử nhận thấy, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã tiến hành tổ chức phiên hòa giải để vợ chồng chị T, anh S hàn gắn tình cảm nhưng trong quá trình hòa giải các bên vẫn không hàn gắn được. Mặt khác, theo xác minh của Tòa án với người thân của chị T, anh S thể hiện giữa chị T với anh S đã có những mâu thuẫn phát sinh. Bản thân anh S cho rằng anh và chị T không có ly thân nhưng trong vài tháng gần đây anh và chị T mạnh ai người đó sống, không ai quan tâm đến ai. Anh S, chị T đều thừa nhận vợ chồng chị bất đồng quan điểm và hiện các bên không còn tình cảm vợ chồng với nhau. Anh S cũng đồng ý ly hôn với chị T. Qua đó cho thấy, tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T, anh S đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị Phương T đối với anh Lê Hữu S là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: 01 con chung tên Lê Hữu Đăng K, sinh ngày 29/8/2008. Chị T yêu cầu nuôi con, không yêu cầu anh S cấp dưỡng cho con. Anh S thừa nhận con chung của anh với chị T đang ở cùng mẹ là chị T, có cuộc sống học tập và sinh hoạt ổn định. Anh S cũng đồng ý giao con cho chị T nuôi. Đồng thời, tại biên bản hỏi ý kiến ngày 05/6/2020 thì cháu K có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ là chị Phạm Thị Phương T. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao cho chị T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung là Lê Hữu Đăng K sẽ đảm bảo quyền và lợi ích mọi mặt cho con chung là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi ly hôn, anh Lê Hữu S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị T không yêu cầu anh S cấp dưỡng cho con nên ghi nhận.

[2.3] Về tài sản chung:

Chị T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh S khai có tài sản chung, nhưng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh S từng trình bày yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của vợ chồng anh S với chị T. Tòa án đã ra thông báo yêu cầu anh S nếu có yêu cầu chia tài sản chung thì làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, hết thời gian thông báo anh S không có đơn yêu cầu chia tài sản chung và các biên bản làm việc, biên bản hòa giải sau đó, anh S đều khẳng định anh không yêu cầu chia tài sản chung giữa anh với chị T.

Tại phiên tòa hôm nay, anh S và chị T đều khẳng định không có yêu cầu Tòa án giải quyết gì về tài sản chung của anh S và chị T. Do đó, về tài sản chung của anh S và chị T, Tòa án không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[2.4] Nợ chung: chị T, anh S khai không có nên Tòa án không xét đến.

[2.5] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng chị T phải nộp.

[3] Từ những nhận định nêu trên, xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành là có căn cứ nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: chị Phạm Thị Phương T được ly hôn với anh Lê Hữu S.

Quan hệ hôn nhân của chị T, anh S chấm dứt kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: chị T, anh S có 01 con chung tên Lê Hữu Đăng K, sinh ngày 29/8/2008. Sau khi ly hôn chị Phạm Thị Phương T được quyền tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Lê Hữu Đăng K. Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị T, anh S không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xét đến.

4. Về nợ chung: chị T, anh S khai không có nên Tòa án không xét đến.

5.Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Phạm Thị Phương T phải nộp là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009958 ngày 11 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Chị Phạm Thị Phương T đã nộp đủ án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2020/HNGĐ-ST ngày 21/07/2020 về ly hôn

Số hiệu:39/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về