Bản án 39/2020/HNGĐ-ST ngày 10/08/2020 về tranh chấp ly hôn và yêu cầu nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG

 BẢN ÁN 39/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ YÊU CẦU NUÔI CON

Ngày 10 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 95/2020/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/7/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2020/QĐST-HNGĐ ngày 22/7/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn Chị Thị L - sinh năm 1991 (có mặt);

Địa chỉ: Ấp A1, xã Đ1, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn : Anh Danh Đ - sinh năm 1986 (vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp A1, xã Đ1, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 28/02/2020 và tại phiên tòa nguyên đơn chị Thị L trình bày: Tôi và anh Danh Đ kết hôn với nhau vào năm 2008, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục của địa phương và có đăng kí kết hôn trễ hạn tại UBND xã Đ1, huyện Gò Quao vào ngày 31/01/2012. Sau khi kết hôn vợ chồng tôi sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng trong quan điểm sống, anh Đ không lo làm ăn mà lo nhậu nhẹt, bỏ bê vợ con nên vợ chồng cãi vả nhau. Nay xét thấy cuộc sống hôn nhân không còn hàn gắn được nữa, vợ chồng không còn tình cảm với nhau nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với Danh Đ.

Về con chung: Có một người chung tên Danh Trường A - sinh ngày 17/10/2010, hiện con đang sống với tôi nên tôi yêu cầu nuôi con và tôi không yêu cầu chồng tôi cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chúng tôi không có tạo lập được tài sản chung và cũng không có thiếu nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với anh Danh Đ trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Đ nhiều lần nhưng anh vắng mặt không có lý do. Đồng thời, Tòa án cũng đã tiến hành thông báo tìm kiếm anh Đ trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng đến nay anh Đ cũng không có mặt tại phiên tòa.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang có ý kiến: Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng; việc thu thập tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát đúng quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được thông báo tống đạt đúng quy định nhưng vắng mặt tại phiên là tòa không tuân thủ quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của đương sự cũng như tại phiên tòa hôm nay, đối chiếu với các quy định của pháp luật đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Thị L được ly hôn với anh Danh Đ. Về con chung: Giao cháu Danh Trường A - sinh ngày 17/10/2010 cho chị L được tiếp tục chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng và anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa chị Thị L và anh Danh Đ là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn anh Danh Đ được Tòa án thông báo tìm kiếm anh trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng tại nơi anh có hộ khẩu thường trú theo quy định của pháp luật nhưng anh Đ không có mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Đ.

[2] Về hôn nhân: Chị Thị L và anh Danh Đ kết hôn với nhau vào năm 2008, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục của địa phương và có đăng ký kết hôn trể hạn tại Ủy ban nhân dân xã Đ1, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang vào ngày 31/01/2012 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 17/2012, quyển I/2012 của Ủy ban nhân dân xã Đ1. Như vậy, Hội đồng xét xử xác định hôn nhân của chị L và anh Đ là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân cho thấy: Dù hôn nhân của chị L và anh Đ là hôn nhân tự nguyện nhưng trước khi kết hôn anh chị vẫn chưa tìm hiểu kỹ cá tính của nhau vì vậy khi xác lập cuộc sống chung vợ chồng thì lại bộc lộ ra những cá tính không phù hợp, vợ chồng thường xuyên cải vã. Chị L cho rằng do bất đồng trong quan điểm sống, anh Đ không lo làm ăn mà lo nhậu nhẹt, bỏ bê vợ con. Ngày 17/6/2020 và ngày 06/7/2020 Tòa án đã tổ chức hòa giải để động viên, giải thích giúp vợ chồng anh chị đoàn tụ nhưng anh Đ không có mặt tại Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của anh Đ. Tại phiên tòa chị L cương quyết xin ly hôn với anh Đ. Xét thấy vợ chồng anh chị đã sống ly thân với nhau từ tháng 6/2019 đến nay nhưng không thể hàn gắn được và tại phiên tòa, chị L tỏ rõ thái độ không còn yêu thương anh Đ. Từ đó, cho thấy mâu thuẫn anh chị đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L.

[4] Đối với anh Danh Đ, trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án kết hợp với chính quyền địa phương trực tiếp đến nhà anh Đ tống đạt các văn bản đúng theo qui định của pháp luật và thông báo cho anh Đ trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng tại nơi anh có hộ khẩu thường trú theo quy định của pháp luật nhưng anh Đ không có mặt tại Tòa án để làm các văn bản gửi cho Tòa án nên không có căn cứ để xem xét ý kiến của anh Đ.

[5] Về con chung: Chị L xác định và anh Đ có 01 con chung tên Danh Trường A - sinh ngày 17/10/2010. Tại phiên tòa xét thấy, cháu A đang sống cùng nhà với chị L cũng như cháu A cũng có nguyện vọng muốn tiếp tục sống với chị L. Mặc khác, từ khi ly thân đến nay chị L một mình nuôi con và cháu A phát triển bình thường như những đứa trẻ khác nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu A của chị L. Do đó, giao cháu A cho chị L được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là đúng theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Anh Danh Đ có quyền tới lui thăm nom con chung, không ai có quyền cản trở anh thực hiện quyền này. Khi cần thiết, anh chị có quyền làm đơn xin thay đổi quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Do đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L xác định chị và anh Đ không có tài sản chung và không thiếu nợ ai nên chị không yêu cầu. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Tại phiên tòa sau khi nghe lời trình bày của nguyên đơn và đại diện Viện kiểm sát có quan điểm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xét đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là: 300.000 đồng chị Thị L phải nộp do chị có yêu cầu xin ly hôn nhưng chị được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí trước đây theo biên lai thu số 0008840, ngày 19/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, chị L đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm. Về chi phí đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng chị L tự nguyện chịu nộp và đã nộp xong.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 131 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Thị L được ly hôn với anh Danh Đ.

2. Về con chung: Giao cháu Danh Trường A - sinh ngày 17/10/2010 cho chị Thị L được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Anh Danh Đ có quyền tới lui thăm nom con chung, không ai có quyền cản trở anh thực hiện quyền này. Khi cần thiết, anh chị có quyền làm đơn xin thay đổi quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử miễn xét.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử miễn xét.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là : 300.000 đồng chị Thị L phải nộp do chị có yêu cầu xin ly hôn nhưng chị được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí trước đây theo biên lai thu số 0008840, ngày 19/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, chị L đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm. Về chi phí đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng chị L tự nguyện chịu nộp và đã nộp xong.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án là ngày 10/8/2020. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 39/2020/HNGĐ-ST ngày 10/08/2020 về tranh chấp ly hôn và yêu cầu nuôi con

Số hiệu:39/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về