Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 39/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 150/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 3 năm 2019 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18/7/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2019/QĐST-HNGĐ ngày 06/8/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Ngô Thụy Kim L - sinh năm 1972 (có mặt);

- Bị đơn: Ông Lê Văn H - Sinh năm 1973 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Khu phố 3, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 14/3/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Ngô Thụy Kim L trình bày:

Bà Ngô Thụy Kim L và ông Lê Văn H chung sống với nhau từ năm 1996, sau đó có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường M, thị xã Phan Rang - Tháp Chàm (nay là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm), tỉnh Ninh Thuận cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 01, quyển số 02 ngày 26/01/1998.

Sau khi kết hôn vợ chồng bà sống tự lập, chung sống hạnh phúc đến năm 2003 thì xảy ra mâu thuẫn do ông H thường xuyên rượu chè không chăm lo cuộc sống gia đình, đến đầu năm 2017 bà phát hiện ông H có người phụ nữ khác. Từ đầu năm 2017 đến nay vợ chồng bà không còn sống chung, ông H thỉnh thoảng về nhà lấy đồ dùng cá nhân rồi lại đi. Nay bà không còn yêu thương ông H nữa, yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lê Văn H.

Về con chung: Vợ chồng bà có 02 con chung tên Lê Ngô Hoàng H, sinh ngày 31/8/1996 và Lê Gia H, sinh 02/9/2003 hiện đang ở với bà. Ly hôn bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi Lê Gia H và không yêu cầu ông H cấp dưỡng. Cháu Lê Ngô Hoàng H, sinh ngày 31/8/1996 đã trưởng thành, tự lao động được nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tài sản chung và nợ chung: Bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là ông Lê Văn H: Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay. Tòa án đã thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông H nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do. Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt bị đơn.

Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn bà Ngô Thụy Kim L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với bị đơn ông Lê Văn H, vì vậy Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp “yêu cầu xin ly hôn, tranh chấp nuôi chung” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ở khu phố 3, phường M, TP. Phan Rang - Tháp Chàm nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP. Phan Rang - Tháp Chàm theo khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn ông Lê Văn H nhưng ông H vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Bà Ngô Thụy Kim L và ông Lê Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường M, thị xã Phan Rang - Tháp Chàm (nay là TP. Phan Rang – Tháp Chàm), tỉnh Ninh Thuận cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 01, quyển số 02 ngày 26/01/1998, đây là hôn nhân hợp pháp, tại phiên tòa sơ thẩm bà L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

[4] Về quan hệ hôn nhân, xét thấy: Theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Tuy nhiên, từ năm 2003 vợ chồng bà L xảy ra nhiều mâu thuẫn do ông H thường xuyên rượu chè, không chăm lo cuộc sống gia đình; đến đầu năm 2017 bà phát hiện ông H có người phụ nữ khác, từ đầu năm 2017 đến nay vợ chồng bà không còn sống chung, không quan tâm đến nhau và cũng không ai đặt vấn đề đoàn tụ. Mâu thuẫn của bà L và ông H là phù hợp với biên bản xác minh ngày 15/5/2019 của Tòa án nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm về tình trạng hôn nhân của bà L và ông H do địa phương cung cấp. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xét thấy hôn nhân giữa bà L và ông H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L.

[5] Về con chung: Vợ chồng bà có 02 con chung tên Lê Ngô Hoàng H, sinh ngày 31/8/1996 và Lê Gia H, sinh 02/9/2003 hiện đang ở với bà. Ly hôn bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi Lê Gia H và không yêu cầu ông H cấp dưỡng. Cháu Lê Ngô Hoàng H, sinh ngày 31/8/1996 đã trưởng thành, tự lao động được nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét về yêu cầu trực tiếp nuôi con của bà Ngô Thụy Kim L, Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu Lê Gia H từ trước đến nay ở với bà L và cháu có nguyện vọng được ở với mẹ, vì mẹ chăm sóc cháu tốt hơn. Bà L có nhà ở, có nghề may, thu nhập bình quân khoảng 6.000.000đ/tháng đủ điều kiện nuôi con nên Hội đồng xét giao cháu Lê Gia H cho bà Ngô Thụy Kim L trực tiếp nuôi dưỡng, ông Lê Văn H không có nghĩa vụ phải cấp dưỡng nuôi con do bà L không có yêu cầu. Cháu Lê Ngô Hoàng H, sinh ngày 31/8/1996 đã trưởng thành, tự lao động được nên bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết là phù hợp với quy định pháp luật.

[6] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Phan Rang - Tháp Chàm tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ và đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Tài sản chung và nợ chung: Bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[8] Về án phí: Bà L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273 và Điều 483 của Bộ Luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Ngô Thụy Kim L được ly hôn với ông Lê Văn H.

2. Về con chung: Bà Ngô Thụy Kim L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Gia H, sinh 02/9/2003. Ông Lê Văn H không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do bà Ngô Thụy Kim L không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm non con của người đó.

3. Về án phí: Bà Ngô Thụy Kim L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) bà Ngô Thụy Kim L đã nộp theo biên lai thu tiền số: 0018305 ngày 14/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Bà Ngô Thụy Kim L đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:39/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về