Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 39/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 97/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 4 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị H; ĐKTT: Thôn H, xã H1, huyện A, thàn phố Hải Phòng; cư trú tại thôn P, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên toà.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ; cư trú tại thôn H, xã H1, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên tòa (không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tại các bản tự khai, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Đỗ Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị H và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn với nhau do tự nguyện và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã H1, huyện A, thành phố Hải Phòng ngày 08 tháng 6 năm 2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình anh Đ ở thôn H, xã H1, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hòa hợp nên thường xuyên xảy ra va chạm cãi, chửi nhau. Mặc dù đã được gia đình khuyên ngăn, hoà giải nhiều lần nhưng mâu thuẫn ngày càng căng thẳng, trầm trọng và không còn khả năng khắc phục. Do mâu thuẫn căng thẳng, kéo dài nên chị Đỗ Thị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn P, xã A, huyện A sống ly thân với anh Nguyễn Văn Đ từ tháng 01 năm 2019; từ đó đến nay, vợ chồng không ai quan tâm và trách nhiệm đến nhau. Nay chị Đỗ Thị H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung Nguyễn Phú K, sinh ngày 31 tháng 01 năm 2011 và Nguyễn Phú T, sinh ngày 03 tháng 12 năm 2013. Ly hôn chị Đỗ Thị H đề nghị Tòa án giao con chung Nguyễn Phú T cho chị trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung Nguyễn Phú K cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng nuôi con do chị và anh Đ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Vợ chồng tự phân chia nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản.

Đối với bị đơn là anh Nguyễn Văn Đ: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Văn Đ đã được Toà án nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để anh Đ đến Toà án giải quyết việc chị Đỗ Thị H xin ly hôn nhưng anh Nguyễn Văn Đ đều vắng mặt không có lý do nên Tòa án không có quan điểm của anh Nguyễn Văn Đ trước yêu cầu xin ly hôn của chị Đỗ Thị H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A phát biểu ý kiến khẳng định:

- Về việc tuân theo pháp luật về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt nhiều lần không có lý do nên đã không chấp hành các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 Bộ luật Dân sự, các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Đỗ Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ; về con chung, giao con chung Nguyễn Phú T, sinh ngày 03 tháng 12 năm 2013 cho chị Đỗ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Phú K, sinh ngày 31 tháng 01 năm 2011 cho anh Nguyễn Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng; thời hạn nuôi con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Về việc cấp dưỡng nuôi con và về tài sản chung: Do đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết. Về án phí: Chị Đỗ Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc xét xử vắng mặt của bị đơn: Bị đơn, anh Nguyễn Văn Đ đã được Toà án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục tố tụng nhưng anh Nguyễn Văn Đ vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Văn Đ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của các bên đương sự, các tài liệu, chứng cứ khác do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập có trong hồ sơ vụ án đã xác định chị Đỗ Thị H và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn với nhau do tự nguyện, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND H1, huyện A, thành phố Hải Phòng vào ngày 08 tháng 6 năm 2012. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp; vợ chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị Đỗ Thị H và anh Nguyễn Văn Đ đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Đỗ Thị H ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

[3] Về con chung: Chị Đỗ Thị H và anh Nguyễn Văn Đ có 02 con chung Nguyễn Phú K, sinh ngày 31 tháng 01 năm 2011 và Nguyễn Phú T, sinh ngày 03 tháng 12 năm 2013. Ly hôn chị Đỗ Thị H đề nghị Tòa án giao con chung Nguyễn Phú T cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Phú K cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng; anh Nguyễn Văn Đ vắng mặt, không có quan điểm về việc nuôi con chung. Việc nuôi dưỡng con chung là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nên giao con chung cho ai nuôi dưỡng cũng cần đảm bảo cho con chung được chăm sóc và nuôi dạy trong điều kiện tốt nhất; xét thấy điều kiện nuôi của các bên là ngang nhau nên cần giao con Nguyễn Phú T cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Phú K cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của con chung Nguyễn Phú K.

[4] Ly hôn chị Đỗ Thị H có quan điểm việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung do các đương sự tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, xét thấy quan điểm chị Đỗ Thị H là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận. Việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung sẽ do các bên đương sự tự thỏa thuận, Tòa án không xem xét, giải quyết. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản: Do chị Đỗ Thị H không có yêu cầu nên Toà án không xem xét, giải quyết.

[6] Sau khi ly hôn, nếu các bên đương sự có tranh chấp về việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung hoặc về tài sản chung, Tòa án sẽ xem xét, giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi các đương sự có yêu cầu.

[7] Về án phí: Chị Đỗ Thị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; các điều 143, 147, 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ các điều 6, 7, 9 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016,

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đỗ Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Phú T, sinh ngày 03 tháng 12 năm 2013 cho chị Đỗ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung Nguyễn Phú K, sinh ngày 31 tháng 01 năm 2011 cho anh Nguyễn Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung do các đương sự tự thỏa thuận, Tòa án không xem xét giải quyết.

Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản: Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Đỗ Thị H phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước. Chị Đỗ Thị H đã nộp số tiền 300.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (theo Biên lai thu tiền số 0004161 ngày 03 tháng 4 năm 2019) nên không phải nộp nữa.

Nguyên đơn có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:39/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về