TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 39/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 25 tháng 11 năm 2019 tại Hội trường Toà án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 300/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2019 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2019/QĐXX-ST ngày 25/10/2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Dương Thị T, sinh năm 1991
HKTT: xóm N 5, xã V, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên
Chỗ ở hiện nay: xóm T 2, xã T, thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên.
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1989
HKTT: xóm N 5, xã V, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên
(có mặt chị T, vắng mặt anh T không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và các lời khai tiếp theo trong quá trình tố tụng, tại phiên tòa nguyên đơn chị Dương Thị T trình bày: chị và anh Nguyễn Văn T kết hôn năm 2009, có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Trước khi kết hôn chị và anh T có được tìm hiểu, kết hôn hoàn toàn tự nguyện.
Sau khi kết hôn, vợ chồng sống cùng bố mẹ anh T tại xóm N 5, xã V, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên được 06 tháng thì bố mẹ làm nhà cho ra ở riêng trên đất của gia đình. Chung sống hòa thuận, hạnh phúc khoảng 3 đến 4 tháng thì chị phát hiện anh T nghiện ma túy nhưng do mới kết hôn, anh T hứa sẽ sửa đổi, từ bỏ ma túy nên chị tin tưởng và tiếp tục chung sống cùng với anh.
Năm 2011 vợ chồng cùng đi làm tại Bắc Ninh, chỉ được một thời gian ngắn anh T đã bỏ về nhà. Năm 2014 công ty Sam sung mở tại Phổ Yên, chị chuyển về gần nhà làm. Nhưng do chỉ có chị đi làm nên không lo được kinh tế cho cả gia đình, bản thân anh T lại cờ bạc, cắm cốp tài sản trong gia đình để chơi bời, mua ma túy sử dụng, kinh tế gia đình luôn thiếu hụt.
Trong thời gian vợ chồng chung sống chị cũng đã nhiều lần cai nghiện cho anh T, thậm chí cho anh T cai nghiện tự nguyện tại Trung tâm cai nghiện, cho đi uống Methanon nhưng anh không từ bỏ được ma túy dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng.
Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng từ tháng 8/2018, chị đã cùng con về nhà bố mẹ đẻ ở xã T sống cho đến nay, do vợ chồng không còn tình cảm nên chị đã làm đơn xin ly hôn. Khi chị làm đơn ly hôn cũng đã nói chuyện với anh T. Quan điểm của anh T là chấp nhận theo yêu cầu của chị nhưng đến khi Tòa án báo gọi anh đến để giải quyết anh lại không đến Tòa án.
Đến nay chị xác định vợ chồng không còn tình cảm, đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với anh T.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Mạnh C, sinh ngày 10/10/2011, hiện con chung đang ở cùng chị và đi học ở xã T. Khi ly hôn chị đề nghị được nuôi con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Hiện tại chị đang làm tại Công ty TNHH New one tech – Phú Bình, mức thu nhập trung bình 5.000.000/ tháng, chị xác định hoàn toàn có đủ khả năng để nuôi con.
Tài sản chung, các khoản nợ chung, cho vay chung: Không có.
Bị đơn anh Nguyễn Văn T đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không chấp hành các giấy báo gọi của Tòa án, không đến Tòa án làm việc do vậy không có ý kiến trình bày về yêu cầu xin ly hôn, yêu cầu đề nghị nuôi con chung của chị T đối với anh.
Tại biên bản xác minh ngày 17/10/2019, bà Nguyễn Thị T - mẹ đẻ anh Nguyễn Văn T trình bày: anh T, chị T kết hôn năm 2009, có đăng ký kết hôn tại UBND xã V.
Sau khi kết hôn, anh chị chung sống cùng gia đình một thời gian thì ra ở riêng tại nhà gia đình đã làm trước đó. Quá trình chung sống của anh chị bà không được biết do không ở chung. Anh T chơi bời mắc tệ nạn xã hội, nghiện hút ma túy là có thật nên chị T không muốn chung sống cùng anh T. Trước khi về nhà bố mẹ đẻ, chị T cùng bố mẹ sang nhà bà để nói chuyện cho vợ chồng chị được ly hôn, anh T có biết chị T làm đơn xin ly hôn. Đến nay chị T yêu cầu được ly hôn, về phía gia đình không có ý kiến gì, tùy vào quyết định của anh chị.
Về công việc hiện anh T làm tự do, làm ở đâu, thu nhập như thế nào gia đình bà không nắm được, hàng tuần có về nhà vào thứ 7, chủ nhật. Bà cũng đã giao lại các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh T còn việc anh có lên Tòa án không, gia đình không nắm được. Quan điểm gia đình nếu anh T không đến thì Tòa án xử vắng mặt, gia đình không có ý kiến gì.
Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Mạnh C, sinh ngày 10/10/2011. Hiện cháu đang ở cùng với mẹ, chị T có nguyện vọng nuôi con, gia đình bà đồng ý.
Về tài sản chung, các khoản nợ chung, cho vay chung: Không có.
Tại biên bản xác minh ngày 17/10/2019, ông Đào Văn C - phó Trưởng công an xã V cung cấp: Anh Nguyễn Văn T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xóm N 5, xã V, Phổ Yên, Thái Nguyên. Hiện anh T vẫn đăng ký thường trú tại địa chỉ trên, chưa cắt khẩu chuyển đi nơi khác cũng như không đăng ký tạm vắng.
Công an xã cũng đã phối hợp cùng với Tòa án đến gia đình anh T để tống đạt văn bản tố tụng cho anh T, mẹ đẻ anh T là bà T nhận thay và đã giao các văn bản, giấy triệu tập cho anh T nhưng anh T không lên Tòa án. Tại địa phương, anh T là đối tượng nghiện hút nhiều năm, thuộc diện theo dõi của công an xã. Gia đình cũng đã nhiều lần cho cai nghiện tại nhà, cho đi uống Methanon nhưng vẫn tái nghiện.
Quan điểm của địa phương, việc anh T không lên Tòa án thể hiện ý thức không chấp hành pháp luật, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh T theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND thị xã Phổ Yên phát biểu quan điểm:
*Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, hội đồng xét xử vụ án, thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án:
- Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 28, 35, 39 BLTTDS về thẩm quyền thụ lý; Điều 68 về xác định tư cách tham gia tố tụng; Điều 96, 97 BLTTDS về xác minh, thu thập, giao nhận chứng cứ; Điều 195 BLTTDS về việc thụ lý, giao nhận Thông báo thụ lý vụ án cho đương sự; Điều 203 về thời hạn chuẩn bị xét xử; Điều 205, 208, 209, 210, 211 BLTTDS về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của BLTTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn, đã thực hiện đúng, bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của BLTTDS Về quan điểm giải quyết vụ án:
+ Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình chấp nhận cho chị Thực được ly hôn với anh T.
+ Về con chung: áp dụng 81,82,83 Luật Hôn nhân gia đình đề nghị giao con chung Nguyễn Mạnh C, sinh ngày 10/10/2011 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh T cho đến khi chị T có yêu cầu.
+ Về tài sản chung, khoản nợ chung, cho vay chung: Không có, không xem xét giải quyết + Án phí: chị T chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Sau khi nghe đại diện VKS phát biểu quan điểm chấp hành pháp luật tố tụng dân sự, quan điểm giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử nhận định:
{1}Về tố tụng:
{1.1} Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Nguyễn Văn T có đăng ký nhân khẩu thường trú tại xóm N5, xã V, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, chị Dương Thị T có đơn xin ly hôn, căn cứ Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng Dân sự, xác định đây là Tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên.
{1.2} Về sự vắng mặt của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải lần 1, lần 2 cho anh T nhưng anh T vắng mặt không có lý do, do đó việc hòa giải tại Tòa án không thành, chị T có đơn không yêu cầu Tòa án tiếp tục hòa giải, Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên căn cứ Điều 220 Bộ luật TTDS 2015, quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa lần 1, anh T vắng mặt không có lý do, HĐXX đã căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, anh T tiếp tục vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do, HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Quyết định tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn anh Nguyễn Văn T.
{ 2} Về nội dung: chị Dương Thị T khởi kiện xin ly hôn với với anh Nguyễn Văn T và giải quyết quyền nuôi con chung Nguyễn Mạnh C, sinh ngày 10/10/2011, xét yêu cầu khởi kiện của chị T Hội đồng xét xử nhận thấy:
{2.1} Về quan hệ hôn nhân: chị Dương Thị T và anh Nguyễn Văn T tự nguyện kết hôn năm 2009, có đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND xã V, được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Sau khi kết hôn, anh chị chung sống một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Chị T cho rằng nguyên nhân do anh T chơi bời, nghiện hút ma túy, gia đình đã nhiều lần cho anh cai nghiện tại nhà, điều trị cai nghiện uống Methanon nhưng anh không từ bỏ được ma túy. Từ nghiện ma túy, anh không lao động, cờ bạc, cắm cốp tài sản trong gia đình để có tiền mua ma túy sử dụng. Do mâu thuẫn nên chị T đã về nhà bố mẹ đẻ sống từ tháng 8/2018 cho đến nay. Lời khai của chị T phù hợp với lời trình bày của bà T - là mẹ đẻ của anh T (BL38); xác minh tại Công an xã V (BL 39).
Từ lời khai của chị T và quá trình xác minh tại gia đình, địa phương cho thấy, mâu thuẫn giữa anh chị là có, thực tế anh chị đã ly thân từ tháng 8/2018 cho đến nay và chị T không có ý định đoàn tụ. Xác minh tại gia đình anh T, bà T - mẹ đẻ anh T trình bày anh T biết chị T có đơn xin ly hôn, anh cũng đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, anh T không đến Tòa án là thể hiện ý thức chấp hành pháp luật kém, cố tình gây khó khăn trong việc giải quyết ly hôn cũng như thể hiện việc bất lực trong việc hàn gắn tình cảm vợ chồng.
Xét thấy mâu thuẫn giữa anh chị đã thực sự trầm trọng, kéo dài và không có khả năng đoàn tụ nên cần chấp nhận cho chị T được ly hôn với anh T là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014.
{2.2} Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên Nguyễn Mạnh C, sinh ngày 10/10/2011. Hiện con chung đang ở cùng với chị T. Chị T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Phù hợp với nguyện vọng của cháu C muốn được ở cùng với mẹ.
Hiện tại chị T đang làm công nhân tại Công ty TNHH New One Tech - Phú Bình, mức thu nhập trung bình 5.000.000/tháng. Quá trình giải quyết tại Tòa án, anh T không có mặt, không thể hiện quan điểm về con chung nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét nguyện vọng của anh T. Do vậy xét thấy không cần thiết phải thay đổi môi trường sống, học tập của con chung, cần giao con chung cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.
Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con là ý chí tự nguyện, do vậy tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh T cho đến khi có đến khi chị T có yêu cầu.
{2.3} Tài sản chung, các khoản nợ chung, cho vay chung: không có, không xem xét.
{2.4} Án phí: chị Dương Thị T chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227,271,273 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Điều 51, 56, 81,82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn và yêu cầu giải quyết về con chung của chị Dương Thị T với anh Nguyễn Văn T.
1. Về quan hệ hôn nhân: chị Dương Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn T.
2. Về con chung: giao con chung Nguyễn Mạnh C, sinh ngày 10/10/2011 cho chị Thực trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh T có đến khi có yêu cầu.
Anh T có quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có thể yêu cầu thay đổi việc nuôi và việc cấp dưỡng nuôi con chung.
3. Về Tài sản chung vợ chồng, các khoản nợ chung, cho vay chung: Không có, không xem xét giải quyết.
4. Án phí: Chị Dương Thị T phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên, biên lai thu số 0004489 ngày 09/9/2019.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt chị T, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh T vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết kết quả xét xử.
Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 25/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 39/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về