TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 39/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 24 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 198/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 24/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị V - Sinh năm: 1987; Địa chỉ: Xóm Ch, xã L, huyện L, tỉnh Hòa Bình (Có mặt).
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đức Kh - sinh năm 1988; Địa chỉ: Đội 15, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 13/6/2019 và trong quá trình giải quyết, xét xử nguyên đơn chị Bùi Thị V trình bày:
- Về hôn nhân: Chị V và anh Kh kết hôn với nhau do hai bên tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 24/4/2013 tại UBND xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Sau khi kết hôn anh chị chung sống với nhau tại Đội 15, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Cuộc sống chung của vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn từ tháng 5/2018, nguyên nhân là do tính tình không hòa hợp, quan điểm sống bất đồng, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh chị đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng mâu thuẫn không giải quyết được mà ngày càng trầm trọng, hai anh chị đã sống ly thân với nhau từ tháng 5/2018 cho đến nay không ai còn quan tâm đến ai nữa. Vì vậy chị V đề nghị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên giải quyết cho chị được ly hôn với anh Kh vì tình cảm của chị V đối với anh Kh không còn nữa.
- Về con chung: Chị V và anh Kh có 01 con chung là Nguyễn Trần Thiên A - sinh ngày 15/5/2013, hiện nay cháu A đang ở với chị V tại Xóm Ch, xã L, huyện L tỉnh Hòa Bình. Chị V có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu A cho đến khi thành niên, có khả năng lao động và không yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con chung cho cháu A. Thu nhập của chị V từ nghề làm thợ may được khoảng 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng/1 tháng, chị V đảm bảo có đủ khả năng về thời gian cũng như về điều kiện kinh tế để nuôi dưỡng, chăm sóc cháu A.
- Về tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, nợ lấy về, diện tích ruộng nương: Không có.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và quan điểm giải quyết vụ án như sau:
* Về việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng:
- Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử của thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định về pháp luật tố tụng dân sự.
- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Tại phiên tòa ngày hôm nay, Hội đồng xét xử, thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:
+ Đối với nguyên đơn: Trong quá trình giải quyết vụ án đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các Điều 70,71 Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Đối với bị đơn: Tòa án đã thông báo về phiên hòa giải cho bị đơn đúng quy định nhưng bị đơn vắng mặt là vi phạm Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự, vi phạm này của bị đơn đã làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nhưng không ảnh hưởng nghiêm trọng.
* Về quan điểm giải quyết vụ án:
- Về hôn nhân: Căn cứ Điều 51, 53, 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 đề nghị Tòa án chấp nhận nội dung đơn khởi kiện của chị V được ly hôn với anh Kh.
- Về con chung: Căn cứ vào các Điều 69, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử giao Nguyễn Trần Thiên A - sinh ngày 15/5/2013 cho chị V chăm sóc. Chị V không yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Tòa án không giải quyết.
- Về tài sản: Không có.
- Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án nguyên đơn chị Bùi Thị V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả hỏi tại phiên tòa và trên cơ sở xem xét đầy đủ ý kiến của nguyên đơn tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn giữa chị Bùi Thị V và anh Nguyễn Đức Kh thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên được quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án anh Kh đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án liên quan đến việc giải quyết vụ án nhưng anh Kh vẫn không đến tham gia phiên tòa. Xét thấy, sự vắng mặt của anh Kh không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Kh theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung:
*) Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh Kh là hợp pháp, trên cơ sở tự nguyện được pháp luật công nhận, chị V cho rằng cuộc sống chung của anh chị không có hạnh phúc là do tính tình không hòa hợp, quan điểm sống bất đồng, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh chị đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng mâu thuẫn không giải quyết được mà ngày càng trầm trọng (được chứng minh tại Biên bản xác minh ngày 05/7/2019 do Tòa án thu thập tại Ủy ban nhân dân xã Th, huyện Đ BL: 37), hai anh chị đã sống ly thân với nhau từ tháng 5/2018 cho đến nay không ai còn quan tâm đến ai nữa. Xét thấy, sau khi thụ lý vụ án anh Kh không trả lời thông báo thụ lý vụ án của Tòa án và cũng không đến tham gia phiên hòa giải để trình bày quan điểm của mình, điều đó đã thể hiện anh Kh chưa thực sự có thiện chí đoàn tụ. Vì vậy không có căn cứ để chứng minh rằng cuộc sống chung của chị V và anh Kh vẫn hòa thuận, hạnh phúc. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị V và anh Kh đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy cần xử cho chị V được ly hôn với anh Kh là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
*) Về con chung: Chị V và anh Kh có 01 con chung là Nguyễn Trần Thiên A - sinh ngày 15/5/2013, hiện tại cháu A đang ở cùng với chị V tại Xóm Ch, xã L, huyện L tỉnh Hòa Bình. Nguyện vọng của chị V sau khi ly hôn là được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Anh, chị V tự nguyện không yêu cầu anh Kh phải cấp dưỡng nuôi con chung cho cháu A. Trong quá trình giải quyết vụ án anh Kh cũng không có ý kiến gì về việc nuôi con chung nhưng xét về mặt thực tế hiện tại cháu A đang ở cùng với chị Vi, anh Kh đi làm ăn xa thỉnh thoảng mới về nhà không có điều kiện về thời gian để nuôi dưỡng, chăm sóc cháu A. Mặt khác tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa chị V khai thu nhập của chị từ nghề làm thợ may được khoảng 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng/1 tháng, chị V đảm bảo có đủ khả năng về thời gian cũng như về điều kiện kinh tế để nuôi dưỡng, chăm sóc cháu A. Vì vậy để đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt cho cháu A, Tòa án cần giao cho chị Vnuôi dưỡng, chăm sóc cháu A và anh Kh không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho cháu A là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân gia đình.
*) Về tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, nợ lấy về, diện tích ruộng nương: Không có.
*) Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án nguyên đơn chị Bùi Thị V phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56, 69, 70, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự;
1. Về hôn nhân: Chị Bùi Thị V được ly hôn với anh Nguyễn Đức Kh.
2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Trần Thiên A - sinh ngày 15/5/2013 cho chị Bùi Thị V được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu A đủ tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động. Việc cấp dưỡng nuôi con không đề nghị Tòa án giải quyết.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về tài sản: Tài sản riêng, nợ lấy về, diện tích ruộng: Không có; Tài sản chung, nợ phải trả: Không có.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án chị Bùi Thị V phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng tại biên lai thu tiền số AA/2016/0003176 ngày 13/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; Chị V đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự chị Bùi Thị Vcó quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (24/9/2019). Anh Nguyễn Đức Kh có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 24/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 39/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về