Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 17/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 39/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 17/9/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:128/2019/TLST-HNGĐ ngày 07/8/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Thanh H, sinh năm 1987

Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã N, huyện X, tỉnh Thái Bình.

Chỗ ở hiện nay: Thôn V, xã L, huyện X, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đăng H, sinh năm 1983

Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã N, huyện X, tỉnh Thái Bình.

Hiện đang chấp hành biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện công lập tỉnh Thái Bình.

Địa chỉ: Ngõ 222, Ngô Thì Nhậm, phường Kỳ Bá, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

3. Người làm chứng: Ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1954 và bà Lại Thị Q, sinh năm 1958 (là bố mẹ đẻ của anh H).

Đều cư trú tại: Thôn Đ, xã N, huyện X, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị Phan Thanh H trình bày: Chị và anh Nguyễn Đăng H tự nguyện kết hôn với nhau,có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện X vào ngày 22/7/2008, sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2013 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, anh H không chịu khó lao động, nghiện ma túy, nên chị đã đi lao động ở nước ngoài. Khi chị về thấy anh H không thay đổi, chị không còn tình cảm với anh nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Về con chung: Chị và anh H có một con chung tên Nguyễn Thị Phương V, sinh ngày 16/02/2010 hiện đang ở với bố mẹ đẻ anh H là ông Nguyễn Đức H và bà Lại Thị Q. Chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh H góp tiền cấp dưỡng nuôi con, chị làm lao động tự do thu nhập khoảng 4.000.000 đồng/ tháng.

Về tài sản và nợ chung: không có.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/8/2019 bị đơn anh Nguyễn Đăng H trình bày: sau khi kết hôn anh và chị H chung sống đến năm 2013 phát sinh mâu thuẫn rồi sống ly thân từ đó, không còn quan tâm đến nhau, chị H xin ly hôn anh nhất trí.

Về con chung: Anh và chị H có một con chung như chị H khai, anh đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị H góp tiền cấp dưỡng nuôi con vì cháu V ở với anh từ bé. Anh bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ ngày 23/12/2018, thời hạn là 18 tháng.

Về tài sản và nợ chung: không có. Anh đề nghị được vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

Người làm chứng là ông H và bà Q khai: Anh H và chị H sau khi kết hôn ở cùng với ông bà, đến năm 2013 chị H đi lao động tại Đài Loan. Trong thời gian chị đi lao động anh H và cháu V ở cùng với ông bà, chị H vẫn thường xuyên liên lạc và gửi tiền về cho bà để nuôi cháu V. Từ khi về nước chị H ở nhà bố mẹ đẻ tại xã Vũ Lễ, huyện Kiến Xương vẫn thường xuyên đến thăm con và đưa tiền cho bà đóng học cho cháu V. Anh H bị nghiện ma túy từ năm 2014, đang đi cai nghiện là lần thứ hai. Ông bà nhất trí việc Tòa án giải quyết cho chị H được ly hôn anh H; do chị H còn trẻ sẽ đi xây dựng gia đình còn anh H bị nghiện ma túy nên đề nghị giao cháu Nguyễn Thị Phương V cho ông bà trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu V trưởng thành.

Kết quả xác minh tại UBND xã N, huyện Kiến Xương vào ngày 20/8/2019 thể hiện: Sau khi kết hôn anh H - chị H chung sống tại địa phương một thời gian ngắn phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H nghiện ma túy, hiện anh H đang đi cai nghiện bắt buộc lần hai. Trong thời gian anh chị sống ly thân, anh H và con ở cùng với ông H và bà Q. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương phát biểu quan điểm:

Thẩm phán, HĐXX và Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70,71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh H; giao con chung Nguyễn Thị Phương V cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu anh H góp tiền cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung không có, không nợ ai; về án phí chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Chị Phan Thanh H khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Đăng H có nơi cư trú tại xã Vũ Ninh, huyện Kiến Xương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân huyện Kiến Xương tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Anh Nguyễn Đăng H đề nghị giải quyết vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án:

[4] Về quan hệ hôn nhân: chị H và anh H tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện Kiến Xương là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2013 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H nghiện ma túy. chị H xin ly hôn, anh H nhất trí, chứng tỏ tình cảm giữa anh chị không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chịH, quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa, xử cho chị được ly hôn anh H là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: chị H và anh H có một con chung là Nguyễn Thị Phương V, sinh ngày 16/02/2010. Anh H, chị H đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung không yêu cầu góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Mặc dù cháu V có nguyện vọng được ở với anh H khi anh chị ly hôn, song xét thấy anh H đang chấp hành biện pháp cai nghiện bắt buộc không thể thể trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu V, do vậy cần giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là đúng với quy định tại các điều 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình. Anh H có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con khi cần thiết. Ghi nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu anh H góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản và nợ chung: các đương sự đều khai không có.

[7] Về án phí: Chị Phan Thanh H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phan Thanh H được ly hôn anh Nguyễn Đăng H.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị PhươngV, sinh ngày 16/02/2010 cho chị Phan Thanh H trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu anh H góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Anh H có quyền thăm nom con chung và yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con khi cần thiết.

3. Về tài sản và nợ chung: không có.

4. Về án phí: Chị Phan Thanh H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) đồng chị H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001390 ngày 07/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, chị H đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Phan Thanh H có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 17/9/2019. Anh Nguyễn Đăng H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 17/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:39/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về