Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 12/09/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH THUẬN - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 39/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 12 tháng 9 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 83/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2019 về việc “tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/8/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Ngọc B, sinh năm 1983; địa chỉ: ấp T, xã H, huyện P, tỉnh Hậu Giang (Có mặt)

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1984; địa chỉ: ấp G, xã B, huyện V, tỉnh Kiên Giang (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/4/2019 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Huỳnh Thị Ngọc B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị B và anh L chung sống với nhau năm 2001, chung sống đến năm 2015 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Bình Bắc. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn bất đồng ý kiến, thường xuyên cự cải, tình cảm vợ chồng không còn thương yêu nhau nên không thể hàn gắn chung sống với nhau nữa. Nay chị B yêu cầu ly hôn với anh L.

Về con chung: Chị B xác định vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng H, giới tính nam, sinh ngày 15/10/2014 (cháu H đang chung sống cùng với chị B). Chị yêu cầu nuôi con chung, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không nợ ai.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Văn L để anh trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị B cũng như tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng anh L không nộp bản tự khai cho Tòa án, cố tình trốn tránh, vắng mặt không rõ lý do.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành tốt các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định; tuy nhiên bị đơn vi phạm những quy định về quyền và nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị B đối với anh L. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng H, giới tính nam, sinh ngày 15/10/2014 cho chị B nuôi dưỡng, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết và không nợ ai nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Xét thấy, sự vắng mặt của anh L không làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh L.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn chị B yêu cầu ly hôn với bị đơn anh L và yêu cầu nuôi con chung. Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện nên Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận thụ lý giải quyết là phù hợp.

[3] Về nội dung vụ án: Chị B và anh L xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2001, anh chị có đăng ký kết hôn tại UBND xã Vĩnh Bình Bắc vào năm 2015 và được cấp giấy đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống anh chị đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, gia đình hai bên đã can thiệp hòa giải nhưng vẫn không thể hàn gắng và anh chị đã sống ly thân, chính quyền địa phương nhiều lần tổ chức hòa giải tạo điều kiện cho anh chị hàn gắng nhưng không thành. Nay chị B yêu cầu ly hôn, anh không có văn bản thể hiện ý kiến gì để Tòa án xem xét, cố tình vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án, anh không có thiện chí để hàn gắng hạnh phúc gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị đã trầm trọng, cuộc sống chung không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó áp dụng Điều 56 (Ly hôn theo yêu cầu của một bên) của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho chị B được ly hôn với anh L.

[4] Về con chung: Chị B xác định trong thời gian chung sống vợ chồng chị có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng H, giới tính nam, sinh ngày 15/10/2014 (cháu H đang chung sống cùng với chị B). Chị yêu cầu nuôi con chung, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy từ khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và anh chị sống ly thân từ tháng 7/2016 cho đến nay thì cháu H chung sống với chị B, cuộc sống của cháu được chị B chăm lo, về điều kiện kinh tế chị B có thu nhập ổn định nên có khả năng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 81 (quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn) của Luật hôn nhân và gia đình 2014 giao cháu Nguyễn Hoàng H, giới tính nam, sinh ngày 15/10/2014 cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng, anh L không cấp dưỡng nuôi con, anh có quyền thăm nom con không ai được cản trở.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và không nợ ai nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ, chị B chịu toàn bộ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Ngọc B được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng H, giới tính nam, sinh ngày 15/10/2014 cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng (cháu H hiện đang sống với chị B), anh L không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và không nợ ai nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Án phí sơ thẩm: Chị Huỳnh Thị Ngọc B chịu 300.000đ tiền án phí Hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu số 0000079 ngày 09/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thuận. Chị B không phải nộp thêm.

5. Nguyên đơn chị B có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (12/9/2019); bị đơn anh L vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 12/09/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:39/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thuận - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về