Bản án 39/2018/HNGĐ-ST ngày 17/10/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH THUẬN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 39/2018/HNGĐ-ST NGÀY 17/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 17 tháng 10 năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 65/2018/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2018 về việc “tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 115/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 13/9/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Cẩm X, sinh năm 1987; địa chỉ: ấp T, xã N, huyện, tỉnh Kiên Giang (Có mặt)

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1991; địa chỉ: ấp T, xã N, huyện V, tỉnh Kiên Giang (Vắng mặt)

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng chính sách X, phòng giao dịch huyện V.

Người đại diện hợp pháp là ông Nguyễn Mạnh Y, chức vụ: Giám đốc Phòng giao dịch huyện V; địa chỉ: khu phố V, thị trấn V, huyện T, Kiên Giang. (Ông Y vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 24/4/2018 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Nguyễn Thị Cẩm X trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị X và anh B kết hôn năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, vợ chồng chung sống phát sinh mâu thuẩn là do anh, chị thường xuyên cự cải, bất đồng ý kiến, mâu thuẫn kéo dài, tình cảm trở nên trầm trọng không thể chung sống, vợ chồng sống ly thân khoản hơn 01 năm cho đến nay. Nay chị X yêu cầu ly hôn với anh B.

Về con chung: Chị X xác định vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thanh M, giới tính nam, sinh ngày 17/4/2013, từ khi ly thân đến nay chị là người trực tiếp nuôi con, chị yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng thiếu nợ Ngân hàng Chính sách X, phòng giao dịch huyện V số tiền là 25.000.000đ, hạn trả nợ cuối cùng là ngày 16/10/2032, chị X đồng ý trả toàn bộ số nợ khi đáo hạn, không yêu cầu anh B có trách nhiệm trả nợ.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh B để anh trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị X cũng như tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, tham gia phiên tòa nhưng anh B không nộp bản tự khai cho Tòa án, cố tình trốn tránh, vắng mặt không rõ lý do.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng chính sách X, phòng giao dịch huyện V do người đại diện là ông Nguyễn Mạnh Y vắng mặt nên không có lời trình bày. Tuy nhiên, tại biên bản về việc không tiến hành hòa giải được ngày 28/6/2018 có ý kiến anh B và chị X có vay số tiền 25.000.000đ. Ngân hàng không yêu cầu gì trong vụ tranh chấp này, thống nhất việc chị X chịu trách nhiệm trả toàn bộ số nợ trên khi đáo hạn trả nợ.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành tốt các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định; tuy nhiên bị đơn vi phạm những quy định về quyền và nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị X được ly hôn với anh B. Về con chung đề nghị giao cháu Nguyễn Thanh M, giới tính nam, sinh ngày 17/4/2013 cho chị X nuôi dưỡng, về cấp dưỡng không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét. Về nợ chung: Nợ Ngân hàng Chính sách X, phòng giao dịch huyện V số tiền 25.000.000đ, chị X đồng ý trả, đại diện ngân hàng chấp nhận không yêu cầu gì trong vụ kiện này nên đề nghị không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn B và ông Nguyễn Mạnh Y là người đại diện của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng chính sách X, phòng giao dịch huyện V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Xét thấy, sự vắng mặt của anh B, ông Y không làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh B, ông Y.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn chị X yêu cầu ly hôn với bị đơn anh B và yêu cầu nuôi con chung. Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện nên Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận thụ lý giải quyết là phù hợp.

[3] Về nội dung vụ án: Chị X và anh B xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2013, anh chị có đăng ký kết hôn tại UBND xã N và được cấp giấy đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống anh chị đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, gia đình hai bên đã can thiệp hòa giải nhưng vẫn không thể hàn gắng và anh chị đã sống ly thân. Nay chị X yêu cầu ly hôn nhưng anh B không có thiện chí hàn gắng hạnh phúc gia đình, anh không có văn bản thể hiện ý kiến gì để Tòa án xem xét, cố tình vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án. Mặt khác, anh chị đã sống ly thân từ đầu năm 2017 đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị đã trầm trọng, cuộc sống chung không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó áp dụng Điều 56 (Ly hôn theo yêu cầu của một bên) của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho chị X được ly hôn với anh B.

[4] Về con chung: Theo lời trình bày của chị X xác định trong thời gian chung sống, vợ chồng chị có 01 người con chung tên Nguyễn Thanh M, giới tính nam, sinh ngày 17/4/2013, hiện cháu M đang sống với chị X, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy từ khi vợ chồng ly thân đến nay chị X là người trực tiếp nuôi con, cuộc sống của con được đảm bảo, có chính quyền địa phương xác nhận chị X đủ điều kiện nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 81 (quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn) của Luật hôn nhân và gia đình 2014, giao cháu Nguyễn Thanh M, giới tính nam, sinh ngày 17/4/2013 cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng. Anh B được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

[5] Về tài sản chung: Chị X xác định trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Chị X thừa nhận thiếu nợ Ngân hàng Chính sách X, phòng giao dịch huyện V số tiền là 25.000.000đ, chị X đồng ý trả toàn bộ số nợ khi đáo hạn, không yêu cầu anh B trả nợ. Người đại diện của ngân hàng không yêu cầu, thống nhất chị X trả nợ khi đáo hạn nên Hội đồng xét xử không xem xét, trường hợp tranh chấp có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.

[7] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ, chị X chịu toàn bộ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1 . Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Cẩm X được ly hôn với anh Nguyễn Văn B.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thanh M, giới tính nam, sinh ngày 17/4/2013 cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng (cháu M hiện đang sống với chị X), anh B không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh B được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung: Không có tài sản chung, chị X không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Cẩm X chịu 300.000đ tiền án phí Hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu số 0005577 ngày 03/5/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

5. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (17/10/2018); bị đơn anh Nguyễn Văn B và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân ngân hàng chính sách X, phòng giao dịch huyện V (người đại diện là ông Y) đều vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2018/HNGĐ-ST ngày 17/10/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:39/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thuận - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về