Bản án 391/2020/DS-PT ngày 27/10/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 391/2020/DS-PT NGÀY 27/10/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 178/2020/TLPT-DS ngày 30 tháng 3 năm 2020 về việc tranh chấp Hợp đồng mua bán tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 251/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2020/QĐ-PT ngày 02/3/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1976; (có mặt) Địa chỉ: Tổ X, ấp M, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Đ: Luật sư Nguyễn Văn T – Văn phòng luật sư H – Đoàn Luật sư tỉnh Tiền Giang. (có mặt) Địa chỉ: QL30, Ấp B, xã A, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1971; (có mặt) Địa chỉ: Tổ B, ấp M, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

- Người kháng cáo: Bị đơn – Nguyễn Thị N.

Theo bản án sơ thẩm;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn – ông Nguyễn Văn Đ trình bày: Từ năm 2014 đến năm 2017 ông có bán thức ăn chăn nuôi heo và tiêm phòng dịch bệnh vật nuôi cho bà Nguyễn Thị N nhiều lần, khi mua bán hai bên có làm sổ theo dõi riêng. Ngày 24 tháng 01 năm 2017 hai bên tổng kết nợ bà N còn thiếu ông số tiền 91.750.000 đồng, đến ngày 02 tháng 10 năm 2018 bà N trả ông số tiền 41.750.000 đồng còn nợ lại 50.000.000 đồng. Nay ông yêu cầu bà N phải trả cho bà số tiền mua bán thức ăn còn nợ là 50.000.000 đồng, yêu cầu trả 01 lần sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn – chị Nguyễn Thị N trình bày: Bà có mua thức ăn nuôi heo của ông Nguyễn Văn Đ nhiều lần từ năm 2014 đến năm 2017, khi mua bán hai bên có lập sổ theo dõi riêng. Đến năm 2016 bà và ông Đ tổng kết nợ bà còn thiếu ông Đ số tiền 147.310.000 đồng, bà có trả cho ông Đ số tiền 80.000.000 đồng còn nợ lại 67.310.000 đồng. Sau đó bà tiếp tục mua thức ăn nuôi heo của ông Đ nợ thêm số tiền 64.440.000 đồng, đã trả ông Đ số tiền 40.000.000 đồng vào ngày 24 tháng 01 năm 2018 còn nợ lại 24.440.000 đồng. Tổng cộng bà nợ ông Đ tiền mua bán thức ăn nuôi heo cũ và mới là 91.750.000 đồng. Ngày 19 tháng 4 năm 2017 bà trả ông Đ 50.000.000 đồng, ông Đ có ghi vào sổ theo dõi của bà, đến ngày 02 tháng 10 năm 2018 bà đã trả cho ông Đ số tiền còn lại là 41.750.000 đồng. Nay bà xác định đã trả hết nợ cho ông Đ nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Đ.

Bản án dân sự sơ thẩm số 251/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang đã căn cứ Điều 430, 440 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 161 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Đ.

Buộc bà Nguyễn Thị N phải có nghĩa vụ trả ông Nguyễn Văn Đ số tiền mua bán thức ăn chăn nuôi heo còn nợ là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), trả 01 lần sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Buộc bà Nguyễn Thị N trả lại ông Nguyễn Văn Đ tiền chi phí giám định chữ viết tổng cộng là 5.800.000 đồng (Năm triệu tám trăm ngàn đồng) làm 01 lần sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày ông Nguyễn Văn Đ có đơn yêu cầu thi hành án nếu bà Nguyễn Thị N chậm thi hành đối với số tiền trên thì còn phải chịu thêm khoản lãi theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí , chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 11/12/2019, bị đơn – bà Nguyễn Thị N kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Ý kiến phát biều của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Bà N và ông Đ đã thống nhất kết toán nợ vào ngày 24/01/2017, bà N còn nợ ông Đ số tiền 91.750.000 đồng. Bà N có trả được 41.750.000 đồng , còn nợ lại 50.000.000 đồng hai bên đương sự có tranh chấp. Bà N cho rằng đã thanh toán cho ông Đ số tiền 50.000.000 đồng và ông Đ có xác nhận vào sổ theo dõi của bà N. Tuy nhiên , ông Đ không thừa nhận. Qua 02 lần giám định chữ viết đều có kết luận là không phải chữ viết của ông Đ. Quá trình kháng cáo bà N không cung cấp thêm chứng cứ gì mới để chứng minh và ông Đ thì không thừa nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký , Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Người tham gia tố tụng chấp hành đúng nội qui phòng xử án và thực hiện quyền , nghĩa vụ đúng pháp luật. Xét đơn kháng cáo của bị đơn là trong thời hạn luật định nên được xem xét. Nhận thấy, bản án sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp và đúng thẩm quyền giải quyết vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm va phúc thẩm ông Đ và bà N cùng thống nhất số nợ là 91.750.000 đồng. Bà N cho rằng đã trả đủ cho ông Đ, ông Đ thì không thừa nhận có nhận số tiền 50.000.000 đồng . Theo kết luận giám định lần 1 và lần 2 đều kết luận chữ viết “gởi 50.000.000 19.4.2017” không phải là chữ viết của ông Đ. Cho nên, bản án sơ thẩm đã xét xử buộc bà N trả cho ông Đ số tiền 50.000.000 đồng là đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xủ phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Qua nghiên cứu toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, kháng cáo của bị đơn, lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn và ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Về nội dung: Các bên đương sự cùng trình bày thống nhất, ông Đ là người bán thức ăn gia súc cho bà N là người mua. Quá trình mua bán từ năm 2014 đến năm 2017, mỗi bên đều có lập sổ theo dõi việc giao nhận thức ăn và trả tiền. Ngày 24/01/2017, hai bên đối chiếu công nợ cùng xác định bà N còn nợ ông Đ số tiền 91.750.000 đồng. Ông Đ cho rằng bà N trả được số tiền 41.750.000 đồng vào ngày 02/10/2018, còn nợ lại 50.000.000 đồng. Bà N thì cho rằng đã đủ số tiền 91.750.000 đồng, cụ thể: Ngày 19/4/2017 trả 50.000.000 đồng, ông Đ có ghi vào sổ theo dõi của bà với nội dung “gởi 50.000.000 19.4.2017”. Ông Đ không thừa nhận có nhận số tiền 50.000.000 đồng vào ngày 19.4.2017 và cho rằng không phải chữ viết của ông Đ, nên phát sinh tranh chấp.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị N, Hội đồng xét xử thấy rằng, hợp đồng mua bán thứa ăn gia súc giữa ông Đ và bà N thực tế phát sinh . Hai bên bắt đầu mua bán từ năm 2014 đến năm 2017 thì ngưng. Hình thức mua bán bằng cách phía ông Đ giao thức ăn gia súc (Thức ăn heo), phía bà N ký nhận vào sổ của ông Đ. Khi bà N trả tiền thì phía ông Đ ký nhận vào sổ theo dõi của bà N. Sau khi ngưng mua bán thì hai bên thống nhất công nợ, bà N còn nợ ông Đ số tiền 91.750.000 đồng được các bên thừa nhận. Bà N cho rằng đã trả toàn bộ số tiền trên cho ông Đ, ông Đ có ghi chú xác nhận vào sổ theo dõi của bà, ông Đ thì không thừa nhận có xác nhận vào sổ theo dõi của bà N về số tiền 50.000.000 đồng. Xét nội dung bản án sơ thẩm đã căn cứ kết luận giám định số 2514/C09B ngày 26/7/2019 đã kết luận “Chữ viết có nội dung: “(gởi 50.000.000 19.4.2017)” trên các tài liệu cần giám định được đóng dấu “Phân viện KHHS –số 2514-năm 2019 TLCGĐ: A (ký hiệu A) so với chữ viết tên Nguyễn Văn Đ trên 03 (ba) tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M3 là không phải do cùng một người viết ra” để xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ, buộc bà N trả số tiền 50.000.000 đồng là có căn cứ, đúng pháp luật. Quá trình kháng cáo, bà N có yêu cầu Tòa án phúc thẩm tiếp tục trưng cầu giám định dòng chữ “(gởi 50.000.000 19.4.2017)” tại Viện Khoa học hình sự - Bộ công an. Tại kết luận giám định số 204/C09-P5 ngày 30/9/2020 đã kết luận “các chữ “(gởi 50.000.000 19.4.2017)” trên mẫu cần giám định ký hiệu A so với chữ viết trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M6 là không phải do cùng một người viết ra”. Như vậy, bà N không có chứng cứ nào khác để chứng minh đã trả số tiền 50.000.000 đồng cho ông Đ, nên kháng cáo của bà N không có cơ sở để chấp nhận. Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm theo qui định tại khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về án phí: Bà Nguyễn Thị N phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp xem như thi hành xong phần án phí dân sự phúc thẩm.

[3] Xét đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên được chấp nhận.

[4] Xét đề nghị của vị đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm là có căn cứ, nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308, và Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ Điều 430, 440 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị N, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số số 251/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Đ.

- Buộc bà Nguyễn Thị N phải có nghĩa vụ trả ông Nguyễn Văn Đ số tiền mua bán thức ăn chăn nuôi heo còn nợ là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), trả 01 lần sau khi án có hiệu lực pháp luật.

- Buộc bà Nguyễn Thị N trả lại ông Nguyễn Văn Đ tiền chi phí giám định chữ viết tổng cộng là 5.800.000 đồng (Năm triệu tám trăm ngàn đồng), trả làm 01 lần sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày ông Nguyễn Văn Đ có đơn yêu cầu thi hành án nếu bà Nguyễn Thị N chậm thi hành đối với số tiền trên thì còn phải chịu thêm khoản lãi theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí:

- Bà Nguyễn Thị N phải chịu 2.500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí do bà N nộp theo biên lai thu số 0002803 ngày 11/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang xem như thi hành xong phần án phí dân sự phúc thẩm.

- Hoàn lại cho ông Nguyễn Văn Đ số tiền 1.250.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 09624 ngày17/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

457
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 391/2020/DS-PT ngày 27/10/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:391/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:27/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về