TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 389/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/12/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN CHUNG
Ngày 18 tháng 12 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 2113/2019/TLST-HNGĐ ngày 19/09/2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 365/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13/11/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 469/2019/QĐST-DS ngày 29/11/2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm 1983.
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1982.
Cùng trú tại: Số 14/75, khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đ.
(Các đương sự có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn, bản tự khai của nguyên đơn anh Nguyễn Ngọc Đ trình bày: anh và chị Nguyễn Thị Thanh H tự nguyện yêu thương nhau và có đăng ký kết hôn năm 2007 tại Ủy ban nhân dân phường Tam Hòa, thành phố B, tỉnh Đ. Quá trình chung sống không hạnh phúc nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên gây gỗ và đã ly thân 04 năm nay. Nay anh và chị H không còn tình cảm nên anh làm đơn xin ly hôn với chị H để ổn định cuộc sống.
Về con chung: Có 02 con chung là Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 07/11/2009 và Nguyễn Khánh D, sinh ngày 16/08/2015. Anh đề nghị Tòa án giải quyết để cho vợ anh là chị H nuôi các con chung và anh đồng ý cấp dưỡng nuôi mỗi người con mỗi tháng là 2.000.000đ ( hai triệu đồng).
Về tài sản chung: Tại đơn khởi kiện đề ngày 31/05/2019, anh đề nghị Tòa án giải quyêt chia tài sản chung là căn nhà số 14/75, khu phố 3, phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tại thửa đất số 86, tờ bản đồ số 9 phường Tam Hòa. Ngày 02/10/2019, anh có đơn xin rút 01 phần yêu cầu chia tài sản chung và đề nghị để vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Chị H trình bày: Chị không đồng ý ly hôn với anh Đ vì chị vẫn còn thương anh và không muốn các con thiếu tình thương của cha. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn thì chị đề nghị được nuôi các con chung và yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000đ (bốn triệu đồng). Về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết và nợ chung không thiếu nợ ai.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án và đương sự tham gia tố tụng tại phiên tòa là đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Hôn nhân giữa anh Đ và chị H là hôn nhân hợp pháp, xét thấy tình cảm vợ chồng giữa anh Đ và chị H không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của anh Đ có căn cứ. Về con chung giao các con chung là Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 07/11/2009 và Nguyễn Khánh D, sinh ngày 16/08/2015 cho chị H nuôi dưỡng, anh Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 4.000.000đ (bốn triệu đồng) kể từ ngày tuyên án cho đến khi các con chung tròn 18 tuổi. Về tài sản chung: Ngày 02/10/2019, anh Nguyễn Ngọc Đ có đơn yêu cầu rút 01 phần về việc chia tài sản chung đối với căn nhà số 14/75, khu phố 3, phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tại thửa đất số 86, tờ bản đồ số 9 phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện về việc chia tài sản chung của anh Đ; Về nợ chung các đương sự khai không thiếu nợ ai đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Về án phí: Anh Đ phải có nghĩa vụ nộp án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Thanh H cư trú tại phường Tam Hòa, thành phố B, tỉnh Đ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.
[2] Về quan hệ hôn nhân: anh Đ và chị H chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đ vào năm 2007 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Theo lời khai của anh Đ thì anh và chị H chung sống với nhau không hạnh phúc, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên gây gỗ nhau và sống ly thân nhau 04 năm nay, xét thấy tình cảm không còn nên anh đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với chị H để anh ổn định cuộc sống mới. Xét thấy mâu thuẫn giữa anh Đ và chị H thật sự trầm trọng không thể hàn gắn được, anh Đ và chị H đã sống ly thân, Tòa án đã tạo điều kiện hòa giải hàn gắn đoàn tụ nhưng anh Đ cương quyết ly hôn với chị H và không đồng ý đoàn tụ. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào chứng cứ tài liệu trong hồ sơ vụ án và áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Đ.
[3] Về con chung: Các đương sự thống nhất giao các con chung là Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 07/11/2009 và Nguyễn Khánh D, sinh ngày 16/08/2015 cho chị Huệ nuôi dưỡng. Anh Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi người con mỗi tháng là 2.000.000đ (hai triều đồng), thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án.
[4] Về tài sản chung: Ngày 02/10/2019 anh Đ có đơn rút một phần yêu cầu chia tài sản chung nên đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện về việc chia tài sản chung là căn nhà số 14/75, khu phố 3, phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tại thửa đất số 86, tờ bản đồ số 9 phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
[5] Về nợ chung: Các đương sự khai không có.
[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không có giá ngạch: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết, anh Đ phải nộp 300.000đ ( ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn và 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí về việc cấp dưỡng nuôi con.
[7] Quan điểm của Viện kiểm sát phù hợp nhận định nên ghi nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28; Điều 35; khoản 4 Điều 147, Điều 203, Điều 207 và Điều 217, Điều 218 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ các Điều 9,10,11,12 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; Các Điều 56; Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014;
Áp dụng Điều 6; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Ngọc Đ. Anh Nguyễn Ngọc Đ được ly hôn với chị Nguyễn Thị Thanh H.
2. Về con chung:
Giao các con chung là Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 07/11/2009 và Nguyễn Khánh D, sinh ngày 16/08/2015 cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Ngọc Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi người con mỗi tháng là 2.000.000đ ( hai triệu đồng) kể từ ngày tuyên án cho đến cháu Đ và cháu D tròn 18 tuổi và có khả năng lao động. Anh Đ được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trong trường hợp cần thiết một trong các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con, cũng như mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định.
Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành số tiền trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
3. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Ngọc Đ về việc chia tài sản chung căn nhà số 14/75, khu phố 3, phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tại thửa đất số 86, tờ bản đồ số 9 phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
4. Về án phí: Anh Đ phải nộp 300.000đ ( ba trăm ngàn đồng) án phí về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh Đ đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, biên lai số 0000312 ngày 27/8/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B và 300.000đ( ba trăm ngàn đồng) án phí về việc cấp dưỡng nuôi con, số tiền này được được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh Đ đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự TP Biên Hòa, biên lai số 0000313 ngày 27/8/2019. Hoàn lại số tiền 16.700.000đ (mười sáu triệu bảy trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0000313 ngày 27/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cho anh Nguyễn Ngọc Đ.
Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 389/2019/HNGĐ-ST ngày 18/12/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung
Số hiệu: | 389/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về