TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 384/2019/HSPT NGÀY 08/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 103/2019/TLPT-HS ngày 25 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo LÊ THẾ X và đồng phạm phạm tội Trộm cắp tài sản do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 504/2018/HS-ST ngày 18/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
- Các bị cáo kháng cáo:
1. LÊ THẾ X, sinh năm 1982, nơi cư trú: Thôn L, xã L, huyện C, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thế V và bà Lê Thị M; có vợ là Trịnh Thị N và 04 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án hình sự phúc thẩm số 309/2007/HSPT ngày 22/5/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 05 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích; tạm giữ, tạm giam: từ ngày 06/01/2018; hiện đang bị tam giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.
2. NGUYỄN VĂN T, sinh năm 1985; nơi cư trú: Thôn L, xã L, huyện C, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị G; có vợ là Nguyễn Thị K và 02 con; tiền án, tiền sự: Bản án hình sự sơ thẩm số 92/2016/HSST ngày 20/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện C, thành phố Hà Nội xử phạt 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2009/HSST ngày 12/6/2009 của Tòa án nhân dân huyện C, thành phố Hà Nội xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (được miễn chấp hành hình phạt theo Nghị quyết 33 của Quốc hội), đã được xóa án tích; tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/01/2018; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Đào Mạnh H, Nguyễn Hùng C, nguyên đơn dân sự Công ty hữu hạn tập đoàn Cục 6 đường sắt Trung Quốc; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Phạm Văn Ch, chị Phạm Thị Kim Th, anh Bùi Ngọc T không có kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
LÊ THẾ X, Đào Mạnh H, NGUYỄN VĂN T và Nguyễn Hùng C là các đối tượng nghiện ma túy, nghề nghiệp không ổn định và có quan hệ quen biết nhau khi đi uống thuốc cai nghiện Methadol tại cơ sở y tế phường Phú Lương, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Do nhiều lần quan sát nên X, H, T và C biết lực lượng bảo vệ công trình xây dựng đường sắt trên cao ở khu vực Hà Đông sơ hở trong việc quản lý, bảo vệ tài sản của nhà thầu chính là Công ty hữu hạn Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc (Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Trong khoảng thời gian từ ngày 09/11/2017 đến ngày 04/01/2018, các bị cáo đã rủ nhau đột nhập vào nhà ga đường sắt trên cao để lấy trộm dây cáp điện có lõi đồng mang bán cho cửa hàng phế liệu lấy tiền ăn tiêu, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Khoảng 11 giờ ngày 09/11/2017, sau khi tập trung uống thuốc cai nghiện Methadol tại cơ sở y tế phường Phú Lương, quận Hà Đông, Xã và H rủ nhau đi trộm cắp dây cáp điện có lõi đồng tại ga đường sắt trên cao. Xã điều khiển xe máy Wave, biển kiểm soát 90F6-A chở H đến khu vực nhà ga Yên Nghĩa. Cả hai để xe máy ở rìa đường rồi đi theo cầu thang bộ lên nhà ga và đột nhập vào tầng hầm lấy 01 cuộn dây cáp điện vỏ nhựa màu đen (loại 01 lõi đồng) dài khoảng 26m thả xuống lòng đường. Sau đó, Xã và H dùng xe máy chở cuộn dây cáp đến cửa hàng thu mua phế liệu ở cạnh nghĩa trang phường La Khê, quận Hà Đông bán cho anh Phạm Văn Ch. Anh Chiển cân cuộn dây cáp điện được 70kg gồm cả vỏ nhựa, thỏa thuận mua với giá 120.000 đồng/kg, tính đồng thành phẩm là 60kg. Anh Chiển trả cho Xã và H 7.000.000 đồng, nợ 200.000 đồng. Xã và H chia nhau mỗi người được 3.500.000 đồng, sử dụng ăn tiêu cá nhân hết.
Kết luận định giá tài sản số 19/KL-HĐ ngày 13/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông kết luận: “... 01 đoạn dây cáp điện lõi đồng #0046m THIHHAC ABLE2017- Cu/XLPE/LSZH1 X 400mm2 - 06/1KV, chiều dài 26m, định giá là 25.168.000 đồng”.
Vụ thứ hai: Khoảng 11 giờ ngày 10/11/2017, Xã cùng H và T rủ nhau đi trộm cắp dây cáp điện. Xã điều khiển xe máy Wave, biển kiểm soát 90F6-A chở H và T đến khu vực nhà ga đường sắt trên cao Yên Nghĩa. Sau khi để xe máy ở rìa đường, cả ba bị cáo đi theo cầu thang bộ lên tầng chứa cáp điện của nhà ga, quan sát thấy có 01 đoạn dây cáp điện đã được đấu nối một đầu vào hệ thống cáp của nhà ga. Xã đi xe máy đến khu vực Ba La, quận Hà Đông mua 01 chiếc kìm và 01 chiếc cưa sắt về cùng H và T cắt trộm 01 đoạn dây cáp điện (loại 01 lõi đồng) dài khoảng 17m và cắt làm 02 đoạn ngắn rồi cuộn tròn lại. H đứng trên nhà ga thả 02 cuộn dây cáp xuống đường. Sau đó, Xã lấy xe máy chở H ngồi sau ôm 02 cuộn dây cáp mang đến bán cho anh Phạm Văn Ch được 4.800.000 đồng. Anh Chiển đưa cho Xã 5.000.000 đồng (bao gồm trả cả 200.000 đồng còn nợ lần trước). Sau khi nhận tiền, Xã cùng H và T cùng nhau đi ăn tiêu chung, còn lại chia nhau mỗi người được 1.500.000 đồng.
Kết luận định giá tài sản số 19/KL-HĐ ngày 13/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông kết luận: “... 01 đoạn dây cáp điện lõi đồng #0046m THIHACABLE2017 - Cu/XLPE/LSZH1 X 400mm2 - 06/1KV, chiều dài 17m, định giá là 16.456.000 đồng”.
Vụ thứ ba: Khoảng 11 giờ ngày 25/11/2017, X, H, T và C rủ nhau đi trộm cắp dây cáp điện. Xã điều khiển xe máy Wave, biển kiểm soát 90F6-A chở T; C điều khiển xe máy Wave màu đỏ (không đeo biển kiểm soát) chở H cùng nhau đi đến nhà ga Văn Khê, quận Hà Đông. Sau khi để 02 xe máy ở rìa đường, các bị cáo đi bộ theo cầu thang lên tầng 3 nhà ga Văn Khê và đi dọc theo đường ray đến nhà ga Yên Nghĩa. Khi đến tầng hầm chứa cáp điện, các bị cáo thay nhau dùng cưa (do Xã đã giấu sẵn từ ngày 10/11/2017) để cắt trộm 01 đoạn dây cáp điện dài 88,5m (loại 01 lõi đồng), rồi cắt ngắn thành 02 đoạn và kéo về đến đoạn giữa ga Yên Nghĩa và ga Văn Khê (lối rẽ vào ga Deport). Xã và C đi xuống trước qua thang bộ ga Văn Khê để lấy xe máy. H và T thả 02 cuộn dây cáp xuống đường cho Xã và C chở đến khu nghĩa trang phường La Khê bán cho anh Phạm Văn Ch được 9.000.000 đồng. Sau khi ăn tiêu chung, X, H, T và C chia nhau mỗi người được 1.200.000 đồng.
Kết luận định giá tài sản số 03/KL-HĐ ngày 05/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông kết luận: “... 88,5m đây cáp điện lõi đồng #0046m THIHHACABLE2017 - Cu/XLPE/LSZH1 X 400mm2 - 06/1KV, định giá là 88.500.000 đồng”.
Vụ thứ 4: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 24/12/2017, Xã, H và T rủ nhau đi trộm cắp dây cáp điện. Xã điều khiển xe máy Wave màu đỏ, biển kiểm soát 29M2-3218 chở H; T đi xe máy của H cùng đến khu vực ga Deport thuộc phường Phú Lương, quận Hà Đông. Cả ba đi đến nhà ga Deport thì phát hiện có 01 đoạn dây cáp điện (loại 03 lõi đồng) đã được đấu nối một đầu vào tủ điện của nhà ga. Xã và H quay xuống lấy xe máy đi đến khu vực ngã 3 Văn Phú, quận Hà Đông mua 01 chiếc cưa sắt rồi quay lại ga Deport. Do bị đau chân nên T lấy xe máy của H đi về trước, còn Xã và H thay nhau dùng cưa cắt trộm 01 đoạn dây cáp điện dài khoảng 13m, rồi cắt đôi thành 02 đoạn ngắn cuộn tròn lại thả xuống đường. Sau đó, Xã và H dùng xe máy đi đến cửa hàng sắt vụn ở khu vực Tổ 10, phường Mộ Lao, quận Hà Đông của chị Phạm Thị Kim Th mượn chiếc xe cải tiến quay lại chở 02 cuộn dây cáp bán cho chị Thanh với giá 5.600.000 đồng. H và Xã sử dụng ăn tiêu chung và chia nhau mỗi người 1.000.000 đồng, ngày hôm sau Xã chia cho T 500.000 đồng.
Kết luận định giá tài sản số 04/KL-HĐ ngày 06/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông kết luận: "... 13m dây cáp điện trung thế WDZA-YDZA-Y23-18/22(24KV)-3x240mm2, định giá là 33.278.000 đồng”.
Vụ thứ năm: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 02/01/2018, Xã điều khiển xe máy Wave, biển kiểm soát 90F6-A đến khu vực ga Deport thuộc phường Phú Lãm, quận Hà Đông. Xã để xe máy ở rìa đường rồi đi theo cầu thang bộ lên ga Deport và đi dọc đường ray đến đoạn đường tránh ga Yên Nghĩa. Quan sát thấy 01 đoạn dây cáp điện (loại 05 lõi đồng) chưa được đấu nối vào hệ thống trên đường ray tàu điện. Xã lấy con dao bấm mang theo rồi kê dây cáp lên đường ray và lấy 01 khúc gỗ đập vào sống dao để cắt đứt 01 đoạn dây cáp dài khoảng 140m, cuộn thành vòng tròn thả xuống đường. Sau đó, Xã dùng xe máy chở đến cửa hàng sắt vụn ở khu vực Tổ 10 phường Mộ Lao, quận Hà Đông bán cho chị Phạm Thị Kim Th được 4.300.000 đồng.
Kết luận định giá tài sản số 20/KL-HĐ ngày 13/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông kết luận: “... 140m dây cáp điện (loại 5 lõi đồng) FMH7XF2309 - cáp ngầm chậm cháy Cu/XLPE/Fr- PVC/DSTA/Fr-PVC3x35+2xl6mm/0.6/lKv, định giá là 55.932.800 đồng”.
Vụ thứ sáu: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 04/01/2018, Xã điều khiển xe máy Wave, biển kiểm soát 90F6-A chở H đến khu vực ga Deport thuộc phường Phú Lãm, quận Hà Đông. Xã để xe máy ở rìa đường rồi cùng H đi theo cầu thang bộ của ga Deport lên đường sắt trên cao đoạn đường tránh ga Yên Nghĩa, quan sát thấy có 01 đoạn đây cáp (loại 5 lõi đồng, đoạn dây còn lại mà Xã đã trộm cắp ngày 02/01/2018). H và Xã kéo dây cuộn thành vòng tròn rồi ném xuống đường và cả hai dùng xe máy chở đến cửa hàng sắt vụn ở khu vực Tổ 10 phường Mộ Lao, quận Hà Đông bán cho chị Phạm Thị Kim Th được 15.000.000 đồng. Xã và H chia nhau mỗi người 7.500.000 đồng.
Kết luận định giá tài sản số 20/KL-HĐ ngày 13/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông kết luận: “... 565m dây cáp điện (loại 5 lõi đồng) FMH7XF2309 - cáp ngầm chậm cháy Cu/XLPE/Fr- PVC/DSTA/Fr~ PVC3x35+2xl6mm/0.6/lKv, định giá là 225.728.800 đồng”.
Sau khi tiếp nhận đơn trình báo của Công ty hữu hạn Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông đã tiến hành xác minh, giải quyết. Đến ngày 06 và 07/01/2018, LÊ THẾ X, Đào Mạnh H, NGUYỄN VĂN T, Nguyễn Hùng C đã đến Công an quận Hà Đông xin đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội. H giao nộp chiếc xe máy nhãn hiệu Wave màu đỏ, BKS 29M5-3218, Xã giao nộp chiếc xe máy nhãn hiệu Wave màu xanh, BKS 90F6-A, là phương tiện các bị cáo sử dụng để phạm tội.
Anh Phạm Văn Ch và chị Phạm Thị Kim Th, là người làm nghề thu mua phế liệu tại khu vực phường La Khê và phường Mộ Lao, quận Hà Đông, đã nhiều lần mua dây cáp điện lõi đồng của LÊ THẾ X, Đào Mạnh H. Sau khi mua dây cáp điện, anh Chiển đã bán lại cho anh Bùi Ngọc T, thu lời 1.000.000 đồng. Chị Thanh bán lại số dây cáp cho anh Bùi Ngọc T để thu lời 6.600.000 đồng. Kết quả điều tra xác định khi mua, bán số dây cáp điện có lõi đồng nêu trên, anh Chiển và chị Thanh đều không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có. Anh Chiển và chị Thanh đã tự nguyện nộp số tiền thu lời trong việc mua bán dây cáp điện. Do đó, Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh Chiển và chị Thanh về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Đối với anh Bùi Ngọc T làm nghề thu mua phế liệu, đã mua khoảng l00kg dây cáp điện có lõi đồng của anh Phạm Văn Ch với giá 130.000 đồng/kg, thành tiền là 13.000.000 đồng; mua của chị Phạm Thị Kim Th khoảng hơn 400kg dây cáp điện có lõi đồng, thành tiền là 39.400.000 đồng. Sau khi mua dây cáp điện mang về nhà, anh Tuấn bóc tách vỏ nhựa lấy được 442 kg lõi đồng. Khi mua dây cáp điện của anh Chiển và chị Thanh, anh Tuấn không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với anh Tuấn. Khi được Cơ quan điều tra thông báo đó là tang vật của vụ án trộm cắp tài sản tại nhà ga đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông, anh Tuấn đã tự nguyện giao nộp 442kg lõi đồng để Cơ quan điều tra trao trả cho chủ sở hữu và giao nộp số tiền thu lời là 240.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 504/2018/HS-ST ngày 18/12/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên bố các bị cáo LÊ THẾ X, Đào Mạnh H, NGUYỄN VĂN T và Nguyễn Hùng C phạm tội Trộm cắp tài sản.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo LÊ THẾ X 12 (mười hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/01/2018.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo NGUYỄN VĂN T 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/01/2018.
Ngoài ra, bản án còn tuyền phần hình phạt đối với bị cáo Đào Mạnh H, Nguyễn Hùng C, tuyên phần trách nhiệm dân sự, biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo của đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26/12/2018, bị cáo LÊ THẾ X và NGUYỄN VĂN T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo LÊ THẾ X và bị cáo NGUYỄN VĂN T thừa nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích nội dung vụ án, tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo LÊ THẾ X và bị cáo NGUYỄN VĂN T về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét các bị cáo Xã và T thực hiện hành vi trộm cắp dây cáp điện nhiều lần (bị cáo Xã 06 lần, bị cáo T 03 lần); bị cáo Xã có nhân thân xấu có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” đã được xóa án, bị cáo T có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo để xét xử bị cáo LÊ THẾ X mức án 12 năm tù và bị cáo NGUYỄN VĂN T mức án 05 năm tù đều về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thảm, các bị cáo không cung cấp được tình tiết mới làm căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo LÊ THẾ X và bị cáo NGUYỄN VĂN T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Tại phiên tòa, bị cáo LÊ THẾ X và bị cáo NGUYỄN VĂN T thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của các bị cáo khác, lời khai của nguyên đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 09/11/2017 đến ngày 04/01/2018, LÊ THẾ X, Đào Mạnh H, NGUYỄN VĂN T và Nguyễn Hùng C đã lợi dụng sơ hở trong việc quản lý, bảo vệ tài sản của nhà thầu là Công ty hữu hạn Tập đoàn Cục 6 đường sắt Trung Quốc, nhiều lần đột nhập vào nhà ga đường sắt trên cao tại khu vực phường Phú Lãm và phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, Hà Nội để cắt trộm dây cáp điện mang bán lấy tiền ăn tiêu chung và chia nhau. Tổng số dây cáp điện bị chiếm đoạt có trị giá là 445.063.600 đồng; trong đó bị cáo LÊ THẾ X tham gia cả 06 vụ trộm cắp, chiếm đoạt số tài sản trị giá là 445.063.600 đồng, thu lợi bất chính số tiền 19.000.000 đồng và bị cáo NGUYỄN VĂN T tham gia 03 vụ trộm cắp dây cáp điện (vụ số 2, 3, 4), chiếm đoạt tài sản trị giá 138.234.000 đồng, thu lợi bất chính 3.200.000 đồng. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xét xử các bị cáo LÊ THẾ X và NGUYỄN VĂN T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 BLHS năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo LÊ THẾ X và NGUYỄN VĂN T, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Bị cáo LÊ THẾ X và bị cáo NGUYỄN VĂN T đều thực hiện hành vi trộm cắp dây cáp điện nhiều lần. Bị cáo Xã đã được xóa án, bị cáo T bị Bản án hình sự sơ thẩm số 92/2016/HSST ngày 20/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện C, Hà Nội xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/01/2017 nên phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm. Trong các lần thực hiện hành vi trộm cắp, các bị cáo không có sự phân công, bàn bạc về cách thức thực hiện và công việc của từng người mà cùng nhau thực hiện nên các bị cáo có vai trò ngang nhau.
Xét thấy hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tài sản thuộc sở hữu của người khác và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo Xã và bị cáo T đều là đối tượng nghiện hút và có nhân thân xấu, đều có tiền án về cùng loại tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng các bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội; nhân thân; các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo đó là khai báo thành khẩn, nguyên đơn dân sự đã nhận lại một phần giá trị tài sản và không yêu cầu bồi thường để xử phạt bị cáo LÊ THẾ X mức án 12 năm tù và bị cáo NGUYỄN VĂN T mức án 05 năm tù đều về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ. Tại phiên tòa hôm nay không có tình tiết mới làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Về án phí: Kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo LÊ THẾ X, NGUYỄN VĂN T phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo LÊ THẾ X và bị cáo NGUYỄN VĂN T; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 504/2018/HSST ngày 18/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về phần hình phạt đối với bị cáo LÊ THẾ X và bị cáo NGUYỄN VĂN T; cụ thể như sau:
Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt: Bị cáo LÊ THẾ X 12 (Mười hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 06/01/2018.
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt: Bị cáo NGUYỄN VĂN T 05 (Năm) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/01/2018.
Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo LÊ THẾ X và bị cáo NGUYỄN VĂN T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 384/2019/HSPT ngày 08/07/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 384/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về