Bản án 384/2018/HS-PT ngày 28/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 384/2018/HS-PT NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 364/2018/TLPT-HS ngày 12 tháng 11 năm 2018, đối với bị cáo Hoàng Trọng T, về tội “Trộm cắp tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 257/2018/HSST ngày 09 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Hoàng Trọng T, sinh ngày 14/9/1985 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: 09/09 X, phường Th, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Trung T2, sinh năm 1961 (đã chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1964; bị cáo có vợ là Lê Thị Khánh V, sinh năm 1988 và 01 con, sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/6/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

- Chị Dương Thị Ánh T1, sinh năm 1984 (vắng mặt).

Địa chỉ: 84 Q, phường Th, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

- Anh Đặng Thành P, sinh năm 1990 (vắng mặt). Địa chỉ: Thôn 3, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hoàng Trọng T là đối tượng nghiện chất ma túy, do cần tiền tiêu xài cá nhân nên trong tháng 6/2018, T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 11 giờ ngày 12/6/2018, Hoàng Trọng T điều khiển xe mô tô biển số 47M3-6076, nhãn hiệu A, màu sơn đỏ, đi từ phòng trọ tại địa chỉ 143/42 Y, phường Th, thành phố B, đến đường P, thành phố B. Khi đi đến trước Ngân hàng N, số 37 P, phường Th, thành phố B, T nhìn thấy 01 xe mô tô biển số 47B2-381.31, nhãn hiệu V, màu sơn trắng đen của chị Dương Thị Ánh T1, đang dựng trên vỉa hè phía trước trụ rút tiền tự động (ATM), không có người trông coi nên T nảy sinh ý định tìm tài sản trong cốp xe mô tô của chị T1 để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Lúc này, chị T1 đang rút tiền trong trụ ATM, cốp xe mô tô không khoá. Lợi dụng trong lúc chị T1 sở hở trong việc quản lý tài sản, T điều khiển xe mô tô biển số 47M3-6076 đi lại gần xe mô tô biển số 47B2-381.31, mở cốp xe mô tô của chị T1 thì thấy bên trong có 01 túi xách màu đen, T trộm cắp túi xách màu đen rồi đi về phòng trọ tại 143/42 Y để cất giấu. Tại đây, T kiểm tra bên trong túi xách có 01 phong bì màu trắng bên trong đựng số tiền 2.000.000 đồng (04 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng), số tiền 300.000 đồng gồm nhiều tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng; 02 sổ hộ khẩu mang tên Nguyễn Hữu T3 và Võ Văn D; 02 chứng minh nhân dân mang tên Dương Quang Q và Dương Thị Ánh T1; 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47B2-381.31, 01 thẻ ATM ngân hàng Đ đều mang tên Dương Thị Ánh T1 và 01 số giấy tờ khác. T sử dụng số tiền 2.300.000 đồng để mua ma tuý sử dụng và tiêu xài cá nhân hết. Đối với túi xách màu đen và các giấy tờ, T đem vứt vào thùng rác tại khu vực Tổ dân phố 6, đường Y, phường T, thành phố B. Ngày 22/6/2018, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm tang vật nhưng không thu giữ được. Sau khi bị trộm cắp tài sản, ngày 12/6/2018 chị T1 đã trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngày 22/6/2018, Hoàng Trọng T đã tự nguyện giao nộp 01 xe mô tô nhãn hiệu A, biển số 47M3-6076, 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47M3-6076, 01 giấy bán xe mô tô và 01 bản phô tô Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Thanh T4 để phục vụ công tác điều tra.

Vụ thứ hai: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 13/6/2018, Hoàng Trọng T điều khiển xe mô tô biển số 47M3-6076, nhãn hiệu A, màu sơn đỏ, đi từ phòng trọ tại địa chỉ 143/42 Y, phường Th, thành phố B đến khu vực đường Y, thành phố B tìm người dân sơ hở trong việc quản lý tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Khi T đi đến trước quán bán đồ chơi trẻ em H, tại 87 Y Jút, phường Th, thành phố B, do chị Vũ Thị Kim Lệ M làm chủ, T nhìn thấy 01 xe mô tô biển số 47M1-494.94, nhãn hiệu L, màu sơn xanh dựng trước cửa quán. Trên xe mô tô để 01 túi đựng đàn, bên trong có 01 cây đàn ghita màu đen, nhãn hiệu F, làm bằng gỗ, thùng đàn bằng nhựa, dài 1,2m, của anh Đặng Thành P, không có người trông coi. T điều khiển xe mô tô biển số 47M3-6076 đi lại gần xe mô tô biển số 47M1- 494.94 và trộm cắp cây đàn ghita mang về phòng trọ cất giấu. Sau khi bị trộm cắp tài sản, anh P nói cho anh Đỗ Thành T5, là anh rể của anh P (tên thường gọi là N, sinh năm 1990, trú tại 105 L, phường Th, thành phố B) biết sự việc và xem lại hình ảnh Camera an ninh tại Công an phường Th, anh T5 nhận ra Hoàng Trọng T là người đã trộm cắp cây đàn ghita của anh P. Khoảng 11 giờ ngày 14/6/2018, anh T5 đi cùng anh Đỗ Thành H (là anh trai của anh T5) tìm gặp T nói chuyện và yêu cầu T trả lại cây đàn ghita cho anh P. Do sợ bị tố giác đến Cơ quan Công an nên T đã đưa cây đàn trộm cắp được cho anh T5 để trả lại cho anh P. Ngày 26/6/2018, anh Đặng Thành P trình báo sự việc, đồng thời tự nguyện giao nộp 01 cây đàn ghita, màu đen, nhãn hiệu F, là vật chứng của vụ án cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận định giá T sản số 161/KLĐG ngày 07/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: 01 cây đàn ghita nhãn hiệu F làm bằng gỗ, màu đen, thùng đàn bằng nhựa, dài 1,2m, trị giá là 4.900.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 257/2018/HSST ngày 09/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Hoàng Trọng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Trọng T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày22/6/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 15/10/2018 bị cáo Hoàng Trọng T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện, đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Hoàng Trọng T về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 01 năm 03 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại các điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới,do đó đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 257/2018/HSST ngày 09/10/2018 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, có đủ cơ sở kết luận: Trong các ngày12/6/2018 và 13/6/2018, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, Hoàng Trọng T đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp của chị Dương Thị Ánh T1 số tiền 2.300.000 đồng, trộm cắp của anh Đặng Thành P 01 cây đàn ghi ta, tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 7.200.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Hoàng Trọng T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ pháp lý, đúng người, đúng tội.

[2] Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy: bị cáo là người thành niên nên ý thức được quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, do lối sống buông thả, lười lao động nhưng muốn có tiền tiêu xài và sử dụng ma túy nên bị cáo đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần thể hiện sự xem thường pháp luật. Trước khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và xử phạt bị cáo 01 năm 03 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, do vậy HĐXX cần giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

 [1] Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Trọng T, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 257/2018/HS-ST ngày 09/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hoàng Trọng T: 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 22/6/2018.

[2] Về án phí: Bị cáo Hoàng Trọng T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúcthẩm.

 [3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 384/2018/HS-PT ngày 28/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:384/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về